Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt gần 18,1 tỷ USD (+3,1%); Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 8,1 tỷ USD (+6,8%); Giá trị xuất khẩu chăn nuôi ước đạt 0,51 tỷ USD (+12,9%); Giá trị xuất khẩu các mặt hàng lâm sản chính ước đạt 8,6 tỷ USD (+18%). Mười tháng đầu năm 2018, bốn thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản chính của Việt Nam là Trung Quốc (chiếm thị phần 22,9%, giá trị xuất khẩu tăng 3,6%), Mỹ (thị phần 17,9%, giá trị xuất khẩu tăng 9,4%), Nhật Bản (thị phần 9,1%, giá trị xuất khẩu tăng 7,1%) và Hàn Quốc (thị phần 6,9%, giá trị xuất khẩu tăng 29,4% so với năm 2017).

Giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 11 tháng đầu năm 2018 đạt 36,3 tỷ USD

Xuất khẩu các mặt hàng nông sản tăng khá (+3,1%), trong đó một số mặt hàng xuất khẩu chính như gạo, hạt điều, rau quả, sản phẩm từ cao su có giá trị tăng cao so với cùng kỳ năm 2017, cụ thể: Gạo đạt 2,8 tỷ USD (+17,7%), rau quả đạt 3,5 tỷ USD (+11,6%), trong đó quả đạt 2,9 triệu USD (+7,2%). Các mặt hàng cà phê, cao su, hồ tiêu tăng về khối lượng: cà phê khối lượng xuất khẩu ước đạt 1,7 triệu tấn (+23,4%); cao su đạt 1,4 triệu tấn (+15,3%); hồ tiêu đạt 220 nghìn tấn (+8,9%).

Xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi 11 tháng ước đạt 508 triệu USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2017. Riêng 10 tháng đầu năm 2018, xuất khẩu các sản phẩm từ gia cầm đạt hơn 25,3 triệu USD (tăng hơn 2,5 lần); sữa và các sản phẩm từ sữa đạt 95,6 triệu USD (tăng gần 2 lần so với cùng kỳ năm 2017).

Xuất khẩu thủy sản tăng mạnh, trong đó: cá tra ước đạt 2 tỷ USD, tăng 27,4%; tôm các loại ước đạt 3,36 tỷ USD, giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2017.

Xuất khẩu các mặt hàng lâm sản tiếp tục tăng mạnh, trong đó: gỗ và sản phẩm gỗ ước đạt 8,1 tỷ USD, tăng 17,5%; sản phẩm mây, tre, cói ước đạt 131 triệu USD, tăng 27,5% so với cùng kỳ.

Các mặt hàng tăng trưởng xuất khẩu tốt trong 11 tháng đầu năm 2018 là gạo (tăng 5,6% về khối lượng và 17,7% về giá trị), rau quả (tăng 11,6% giá trị XK), cao su (tăng 20,7% về giá trị); các loại lâm sản chính (tăng 18%), thủy sản (tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2017).

Các thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng nhanh: ASEAN (giá trị đạt 3,5 tỷ USD, tăng 34,1%); Hàn Quốc (đạt 2,27 tỷ USD, tăng 26,4%), Trung Quốc (giá trị đạt 7,4 tỷ USD, tăng 3,6%); Mỹ (đạt 5,8 tỷ USD, tăng 9,4%), Nhật bản (đạt 2,95 tỷ USD, tăng 7,1% so với 10 tháng năm 2017).

Về nhập khẩu. Tháng 11/2018, giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt 2,8 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu 11 tháng năm 2018 đạt 28,8 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2017. Giá trị nhập khẩu chăn nuôi 10 tháng đầu năm 2018 đạt 2,22 tỷ USD, tăng 23,7% so với cùng kỳ năm 2017, ước giá trị nhập khẩu chăn nuôi tháng 11 năm 2018 đạt 227 triệu USD, nâng giá trị nhập khẩu ngành hàng chăn nuôi 11 tháng đầu năm 2018 đạt 2,44 tỷ USD, tăng 24,4% so với cùng kỳ năm 2017.

Trong 10 tháng đầu năm 2018, giá trị nhập khẩu của mặt hàng thức ăn gia súc và nguyên liệu là lớn nhất đạt 3,22 tỷ USD, tiếp đến là mặt hàng bông các loại với giá trị nhập khẩu đạt 2,58 tỷ USD. 10 tháng đầu năm 2018, giá trị nhập khẩu mặt hàng chăn nuôi đứng thứ 3 đạt 2,22 tỷ USD. Hạt điều cũng là mặt hàng có giá trị nhập khẩu cao, mặc dù đã giảm so với năm 2017 nhưng vẫn là 1 trong 4 mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn nhất với giá trị nhập khẩu đạt 2,12 tỷ USD.

Cũng trong thời gian này, mặt hàng có giá trị nhập khẩu tăng mạnh nhất là mặt hàng rau, so với cùng kỳ năm 2017 giá trị nhập khẩu mặt hàng rau tăng 45,4% (đạt 458 triệu USD). Tiếp đến là mặt hàng ngô, so với cùng kỳ năm 2017 giá trị nhập khẩu mặt hàng ngô năm 2018 tăng 40,5%. Một mặt hàng nữa cũng có giá trị tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2017 là muối với giá trị đạt 22 triệu USD (tăng 36,5%), mặt hàng bông với giá trị đạt 2,8 tỷ USD (tăng 28,6%).

Ước tháng 11, cán cân thương mại nông lâm sản thặng dư 7,45 tỷ USD thấp hơn 3,7% so với cùng kỳ năm 2017./.