Trong đó, giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 17,03 tỷ USD, giảm 5,2%; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt 7,93 tỷ USD, giảm 1,2%.

Trong 11 tháng, giá trị xuất khẩu một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trước như: cao su đạt 2 tỷ USD, tăng 9,3%; chè đạt 216 triệu USD, tăng 16%; rau đạt 592 triệu USD, tăng 9%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 9,6 tỷ USD, tăng 19,5%; quế đạt 163 triệu USD, tăng 31%; mây tre, cói tăng 44,4%; các sản phẩm chăn nuôi tăng 6,5%.

Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 17,03 tỷ USD

Tuy nhiên, vẫn có một số mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu giảm như: trái cây đạt 2,6 tỷ USD, giảm 5,5%; hạt điều, hạt tiêu và gạo mặc dù lượng xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm 2018 nhưng do giá xuất khẩu bình quân giảm mạnh nên giá trị xuất khẩu giảm. Cụ thể, hạt điều đạt 3 tỷ USD, giảm 1,8% về giá trị; gạo đạt 2,6 tỷ USD, giảm 9,4%; hạt tiêu giảm 5,8%; riêng cà phê giảm mạnh cả về giá trị (15%) và lượng (gần 23%), giá trị xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD.

Trung Quốc vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của nông sản Việt Nam, chiếm xuất khẩu trọng 26,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; tiếp đến là Mỹ chiếm 21,9%; EU chiếm 11,7%; ASEAN chiếm 10,1%; Nhật Bản chiếm 8,8% và Hàn Quốc chiếm 5,8%.

Về nhập khẩu, giá trị nhập khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 11/2019 đạt 2,49 tỷ USD, đưa tổng giá trị nhập khẩu 11 tháng đầu năm đạt 28,46 tỷ USD, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông lâm thủy sản chính ước đạt 23,69 tỷ USD, giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2018. Trong 10 tháng đầu năm, 3 thị trường nhập khẩu chính là: Trung Quốc và Hồng Kông, Hoa Kỳ, Argentina chiếm thị phần lần lượt là 15,3% (giá trị tăng 11,7%), 11,7% và 10% (+37,8%) so với cùng kỳ năm 2018. Tình hình nhập khẩu một số mặt hàng chính như sau:

Tháng 11/2019, giá trị nhập khẩu gỗ ước đạt 212 triệu USD, đưa tổng giá trị gỗ và sản phẩm gỗ nhập khẩu 11 tháng đầu năm ước đạt 2,3 tỷ USD, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm 2018. Trong 10 tháng đầu năm 2019, Trung Quốc là thị trường lớn nhất của Việt Nam với 23,8% thị phần.

Đối với mặt hàng thủy sản, tháng 11/2019 đạt 132 triệu USD, đưa tổng giá trị thủy sản nhập khẩu 11 tháng ước đạt 1,6 tỷ USD, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2018. Thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất trong 10 tháng đầu năm là Nauy, chiếm 11,9% thị phần, tiếp đến là Ấn Độ và Trung Quốc với thị phần lần lượt là 11,2% và 7,7%. Trong 10 tháng, thị trường có giá trị nhập khẩu thủy sản tăng mạnh nhất so với cùng kỳ năm 2018 là Philippin (gấp 2,17 lần cùng kỳ), ngược lại thị trường có giá trị nhập khẩu thủy sản giảm mạnh nhất là Ấn Độ (giảm 44,7% so với cùng kỳ năm 2018).

Trong nhóm các sản phẩm có cán cân thương mại ở trạng thái thặng dư, gỗ và sản phẩm gỗ tiếp tục có thặng dư thương mại trong 10 tháng đầu năm 2019 cao nhất, đạt gần 6,47 tỷ USD, tăng 20,9% so với thặng dư thương mại 10 tháng đầu năm 2018. Mặt hàng thủy sản tuy có thặng dư thương mại 10 tháng đầu năm 2019 cao thứ hai ngành nông, lâm, thủy sản, đạt khoảng 5,6 tỷ USD, nhưng vẫn giảm 4% so với thặng dư thương mại cùng kỳ năm 2018.

Tính chung 11 tháng năm 2019, cán cân thương mại ngành nông, lâm, thủy sản của Việt Nam thặng dư ước đạt 8,8 tỷ USD, tăng 20% so với thặng dư thương mại cùng kỳ năm 2018.