Theo Tổng cục Thống kê, CPI tháng 12/2019 tăng 1,4% so với tháng trước, đây là mức tăng cao nhất trong 9 năm qua. Có 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chủ yếu có CPI tháng 12 tăng so với tháng trước, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng cao nhất 3,42%, chủ yếu do nhóm thực phẩm tăng 4,41%, làm CPI chung tăng 1%) lương thực tăng 0,45%.

Nhóm thực phẩm tăng giá 4,41% trong tháng 12

Nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 2,44% do ảnh hưởng của nhóm thực phẩm tăng, làm CPI chung tăng 0,22%; Nhóm giao thông tăng 0,61%; Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,43% do giá gas trong nước tăng 1,03% và giá dịch vụ sửa chữa nhà ở tăng 0,37%; Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,33%; Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,25%; Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,14%; Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,09%; Nhóm giáo dục và dịch vụ giáo dục đều tăng 0,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,24%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,09% so với tháng trước.

CPI bình quân năm 2019 tăng 2,79% so với bình quân năm 2018, dưới mục tiêu Quốc hội đề ra, đây cũng là mức tăng bình quân năm thấp nhất trong ba năm qua. CPI bình quân năm 2019 tăng do giá điện sinh hoạt điều chỉnh tăng theo Quyết định số 648/QĐ-BCT ngày 20/3/2019 của Bộ Công thương, cùng với nhu cầu tiêu dùng điện tăng vào dịp Tết và thời tiết nắng nóng trong quý II/2019 và quý III/2019 làm cho giá điện sinh hoạt tăng 8,38%.

Bên cạnh đó, việc các địa phương điều chỉnh giá dịch vụ y tế, dịch vụ khám chữa bệnh theo Thông tư số 13/2019/TT-BYT và Thông tư số 14/2019/TT-BYT làm giá dịch vụ y tế tăng 4,65% (tác động làm CPI chung tăng 0,18%).

Chính phủ tiếp tục thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP cũng làm chỉ số giá nhóm dịch vụ giáo dục năm 2019 tăng 6,11% so với năm 2018 (tác động làm CPI tăng 0,32%). Đó là chưa kể, việc tăng giá sách giáo khoa năm học 2019-2020 của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam làm chỉ số giá nhóm văn phòng phẩm tăng 3,32% so với cùng kỳ năm trước.

Ngoài ra còn một số yếu tố về thị trường, như giá nhóm hàng thực phẩm tăng 5,08% (giá thịt lợn bình quân năm 2019 tăng 11,79%); giá các mặt hàng đồ uống, thuốc lá tăng khoảng 1,79%; quần áo may sẵn các loại tăng 1,7%; giá dịch vụ giao thông công cộng tăng 3,02%; giá du lịch trọn gói tăng 3,04% và một số mặt hàng thiết yếu tăng trở lại như giá nhiên liệu, chất đốt, sắt, thép…

Bên cạnh các nguyên nhân làm tăng CPI, có một số nguyên nhân kiềm chế CPI năm 2019. Đó là, giá nhiên liệu trên thị trường thế giới năm 2019 tăng giảm đan xen, bình quân giá dầu Brent từ thời điểm 1/1/2019 đến thời điểm 20/12/2019 ở mức 64,05 USD/thùng, giảm 10,28% so với bình quân năm 2018. Tính đến ngày 20/12/2019, giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh tăng 9 đợt, giảm 11 đợt và 4 đợt giữ ổn định. Tính chung năm 2019, chỉ số giá xăng dầu giảm 3,14% so với năm 2018, làm CPI chung giảm 0,15%.

Cùng với đó, giá gas sinh hoạt trong nước được điều chỉnh theo giá gas thế giới, năm 2019 giảm 5,97% so với năm trước. Giá đường trong nước giảm mạnh theo giá đường thế giới, năm 2019 giảm 3,17% so với năm 2018.

Hơn nữa, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã phối hợp chặt chẽ, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm bảo đảm cân đối cung cầu, chuẩn bị tốt nguồn hàng; tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, tổ chức các đoàn công tác liên ngành kiểm tra tình hình triển khai thực hiện quản lý bình ổn giá tại một số địa phương; điều hành tỷ giá theo cơ chế tỷ giá trung tâm linh hoạt.

Tổng cục Thống kê cũng cho biết thêm, lạm phát cơ bản (CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống, năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục) năm 2019 tăng 2,01% so với năm 2018. Có thể thấy, lạm phát chung có mức tăng cao hơn lạm phát cơ bản, phản ánh chính sách tiền tệ vẫn đang điều hành ổn định./.