Bộ Tài chính cho biết, đến nay Việt Nam đã ký kết 11 hiệp định thương mại tự do (FTA) trong và ngoài khu vực. Theo cam kết tại các FTA, các mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với mặt hàng xăng dầu đang trong lộ trình giảm dần.

Giai đoạn 2016-2020 là giai đoạn mà mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt đối với các mặt hàng xăng dầu được giảm mạnh, do việc đàm phán ký kết của từng hiệp định tại các thời điểm khác nhau nên có các mức cam kết cắt giảm thuế suất khác nhau và vào các thời điểm khác nhau tùy theo từng hiệp định.

Bộ Tài chính cũng thừa nhận rằng, việc chênh lệch thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) và thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các hiệp định là tất yếu.

Đồng thời, Bộ này cho biết, trong số 11 hiệp định song phương, khu vực, có một số hiệp định, mặt hàng xăng dầu thuộc danh mục “loại trừ” (không có nghĩa vụ cắt giảm), nhưng có một số hiệp định đã được cắt giảm với mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt năm 2016 như sau:

Tên mặt hàng

Mức thuế NK ưu đãi (MFN) hiện hành

Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt

Trong Asean (ATIGA)

Việt Nam-Hàn Quốc

Asean-Trung Quốc

Xăng

20%

20%

10%

20%

Dầu diezen

10%

0%

5%

8%

Madút

10%

0%

0%

5%

Dầu hỏa

13%

0%

5%

10%

Nhiên liệu bay

10%

0%

5%

15%

Như vậy, mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) của mặt hàng xăng dầu hiện đang cao hơn so với mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các FTA này.

Tuy nhiên, để được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thì hàng hoá nhập khẩu từ các nước này phải đảm bảo điều kiện về xuất xứ (C/O), về điều kiện vận chuyển...

Thực tế thời gian qua, không phải tất cả hàng hoá đều nhập khẩu từ các nước có ký Hiệp định FTA, và cũng không phải tất cả hàng hoá nhập khẩu từ các nước có ký FTA đều được hưởng theo mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt.

Cụ thể trong năm 2015, số thuế (thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt) đã thu từ xăng dầu nhập khẩu là 35.923 tỷ đồng, nhưng thực tế số thuế hoàn theo chứng từ doanh nghiệp nộp bổ sung C/O mẫu D (theo Biểu thuế Atiga) là 3.502 tỷ đồng, chiếm 9,75% tổng số thuế đã nộp. Theo khẳng định của Bộ Tài chính thì số liệu hoàn thuế nhập khẩu này chỉ là số liệu sơ bộ vì có thể tiếp tục được hoàn trong các tháng tiếp theo .

Nhằm giảm bớt chênh lệch giữa mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) với mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt từ các FTA của mặt hàng xăng dầu, ngày 17/3, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 48 quy định mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với xăng dầu với hiệu lực thi hành từ ngày 18/03/2016. Trong đó, thuế suất nhập khẩu với mặt hàng dầu giảm từ 3%-6% tùy loại.

Việc quy định mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với xăng dầu tại Thông tư số 48/2016/TT-BTC nêu trên, về cơ bản đã đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước.

Theo cơ quan này, không phải tất cả xăng dầu nhập khẩu đều được nhập khẩu từ các nước có ký các FTA, mà ngay cả hàng hoá nhập khẩu từ các nước có ký các FTA cũng không phải tất cả đều được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo các FTA đó.

Ngoài ra, theo Bộ Tài chính, hàng hoá nhập khẩu từ Singapore, Hàn Quốc về tới Việt Nam cần tốn thêm khoản chi phí về vận chuyển và bảo hiểm chiếm khoảng 6-7% giá xăng dầu nhập khẩu.

Tuy nhiên, cơ quan này cũng thừa nhận, mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) cao hơn mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại một số FTA mà mức thuế nhập khẩu tính trong giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu lại tính theo mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đến thời điểm này không còn phù hợp.

Để "vá lỗi", Bộ Tài chính cho biết, cùng với việc điều chỉnh giảm mức thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với mặt hàng xăng dầu, bộ này đã phối hợp với Bộ Công Thương có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý với phương án xác định mức thuế nhập khẩu tính trong giá cơ sở điều hành giá bán lẻ xăng dầu theo mức bình quân gia quyền của các biểu thuế (MFN và FTA).

Tỷ trọng xăng dầu nhập khẩu từ các nước ký Biểu thuế FTA được xác định theo quý (dùng số liệu của quý trước để tính cho quý sau) do Tổng cục Hải quan tổng hợp, xác định qua hệ thống hải quan điện tử (đảm bảo tính chính xác, tin cậy).

Việc dùng mức thuế nhập khẩu bình quân gia quyền sẽ đảm bảo sát với thực tế hàng hoá nhập khẩu từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp xăng dầu, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng, doanh nghiệp và Nhà nước.

Tuy nhiên, vấn đề mà dư luận đang quan tâm là sẽ xử lý như thế nào với phần lợi nhuận các doanh nghiệp xăng dầu được hưởng trong thời gian qua nhờ chênh lệch thuế, thì đến nay vẫn chưa được Bộ Tài chính và Bộ Công Thương đề cập.

Một ý kiến đáng lưu tâm đó là, theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long đề xuất, nên đưa phần lợi nhuận này vào Quỹ bình ổn giá xăng dầu như một cách "trả" lại khoản tiền đã "lỡ thu" của người tiêu dùng trong suốt năm qua./.