Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng đã giải trình làm rõ thêm một số ý kiến Đại biểu Quốc hội nêu liên quan đến việc cơ cấu lại NSNN; việc thực hiện và giao dự toán thu từ các khu vực kinh tế, một số địa phương trọng điểm thu và quản lý vốn vay ODA, tại phiên thảo luận ngày 29/10.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng

Thu ngân sách nhà nước, 3 năm đều vượt dự toán

Báo cáo số liệu cụ thể, người đứng đầu Bộ Tài chính cho biết, 3 năm qua, thu ngân sách đã đạt khoảng 54 -55% kế hoạch. Trong khi giá trị GDP đạt 52 -53% kế hoạch của 5 năm. Tỷ lệ huy động, động viên vào ngân sách nhà nước là 24,9% GDP, trong đó từ thuế và phí là 21% GDP, đạt và vượt mục tiêu nghị quyết của Quốc hội đưa ra tỷ lệ động viên vào ngân sách là không thấp hơn 23,5% GDP, trong đó thuế và phí là 21%.

Tỷ trọng thu nội địa tăng từ 75% năm 2015 đến gần 82% năm 2018 trong khi quy mô thu ngân sách bình quân 3 năm 2016 -2018 bằng 1,5 lần bình quân của giai đoạn 2011-2015. Trong đó, riêng thu nội địa tăng 1,78 lần. Nội địa mà trừ đi đất, trừ xổ số kiến thiết, phần bán vốn, cổ tức lợi nhuận sau thuế thì tăng 1,62 lần so với bình quân của giai đoạn 2011-2015.

Tỷ trọng thu dầu thô và thu từ hoạt động xuất nhập khẩu giảm tương ứng từ 23% xuống còn 18% cùng kỳ.

“Một số vị đại biểu Quốc hội có nêu, số tăng thu ngân sách nhà nước trong 3 năm qua chủ yếu là thu tiền sử dụng đất, điều này là đúng vì khoản thu này phụ thuộc nhiều vào thị trường và điều hành của chính quyền các địa phương”, người đứng đầu Bộ Tài chính chỉ rõ.

Tuy nhiên, cũng như một số nguồn thu từ khai thác khoáng sản, bán tài sản nhà nước, tỷ trọng khoản thu tiền sử dụng đất trong thu nội địa đang có xu hướng giảm, từ mức 11% năm 2016, 12% năm 2017 xuống còn 10,6% năm 2018 và dự kiến giảm còn 6,7% năm 2020.

Đối với một số địa phương, Bộ trưởng cho biết, các nguồn thu này đã giảm mạnh trong thời gian qua. Chẳng hạn như Đà Nẵng, đã từng có lúc thu tiền sử dụng đất chiếm tới gần 50% tổng thu ngân sách nhà nước thì nay chỉ còn trên dưới 10%. Quảng Ninh năm 2011 thu từ khai thác khoáng sản, chủ yếu là than, chiếm gần 60% thu ngân sách địa phương thì nay còn khoảng 45%, trong khi chi ngân sách của các địa phương này vẫn tăng nhờ thu thuế, phí từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng trong nước.

Đã giảm tỷ trọng chi thường xuyên

Kết quả cơ cấu lại cũng tích cực, sớm đạt được yêu cầu theo Nghị quyết 25 của Quốc hội, đó là: Tăng tỷ trọng cho đầu tư phát triển dự toán năm 2015 là 17% tổng chi ngân sách nhà nước. Nghị quyết của Quốc hội yêu cầu giai đoạn 2016-2020 bố trí tăng lên bình quân là 25-26% và dự toán 2 năm chúng ta đã bố trí 26%, thực tế thực hiện lên 27-28% nhờ tăng thu của ngân sách địa phương.

Đã giảm tỷ trọng chi thường xuyên, dự toán năm 2015 là 66,8% chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách nhà nước. Quốc hội yêu cầu giảm dần xuống mức dưới 64% và dự toán 3 năm 2016-2018 chúng ta đã bố trí khoảng 64% và thực hiện xuống còn 63% chi thường xuyên, trong khi chúng ta vẫn phải điều chỉnh tiền lương bình quân 7%/năm, cùng triển khai chính sách giảm nghèo đa chiều, an sinh xã hội và đảm bảo một số nhiệm vụ quốc phòng an ninh.

Bộ trưởng cũng chỉ rõ, ba năm trở lại đây thu ngân sách đều có tích lũy cho đầu tư phát triển. Tức là tổng thu, cân đối ngân sách trừ đi chi thường xuyên, chi trả nợ lãi, trừ tiền đất và cổ phần hóa đều có tích lũy cho đầu tư phát triển.

Tốc độ tăng nợ công đã giảm gần một nửa

Bộ trưởng Dũng cũng cho biết, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát chặt chẽ hơn, cả số tuyệt đối và tỷ lệ so với GDP. Trong điều hành phấn đấu giảm so với dự toán và giảm dần qua các năm, nếu bình quân giai đoạn 2011-2015 bội chi ngân sách của chúng ta là 5,79% GDP thì năm 2018 chúng ta dự kiến còn 3,67% GDP, trong khi dự toán là 3,7%.

Bộ trưởng Dũng cho hay, đã kiểm soát chặt chẽ các khoản nợ công, bố trí trả nợ đầy đủ, nhờ vậy tốc độ tăng nợ công đã giảm gần một nửa, từ mức 18% trong giai đoạn 2011-2015 xuống còn 9,6% của 3 năm 2016-2018.

Trong khi tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2011-2015 là 5,91%, nợ công tăng 18% và 3 năm vừa qua tăng trưởng kinh tế là 6,57%, nợ công tăng 9,6%, góp phần đưa tỷ lệ nợ công giảm từ mức 63,7% GDP năm 2016 xuống còn 61,4% năm 2018 và dự kiến xuống còn 61,3% vào năm 2019 và 60,8% năm 2020.

Kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ tăng từ mức 3-7 năm của giai đoạn 2011-2015 lên xấp xỉ 13 năm trong 9 tháng đầu năm 2018 và hiện 3 năm qua, không phát hành kỳ hạn trái phiếu chính phủ 5 năm, mà đều phát hành trên 5 năm trở lên.

Lãi suất huy động giảm, năm 2011 bình quân là 12%/năm, 9 tháng đầu năm nay, chúng ta phát hành trái phiếu chính phủ 4,52%, có những thời điểm rất thấp, cơ cấu nhà đầu tư cũng thay đổi tích cực tỷ trọng nắm giữ trái phiếu chính phủ của hệ thống ngân hàng thương mại giảm từ 78% cuối năm 2016 xuống còn 53% năm 2017 và đến hết tháng 9 năm 2018 thì hệ thống ngân hàng thương mại của chúng ta chỉ còn nắm giữ 31,6% trái phiếu chính phủ. Tỷ lệ nắm giữ của các doanh nghiệp chứng khoán, bảo hiểm đến tháng 9/2018 tăng lên mức 68% trái phiếu chính phủ, trong khi năm 2016 là 19,6%, tỷ trọng vay nước ngoài của Chính phủ giảm từ 61% năm 2011 xuống còn 40% trong 9 tháng đầu năm 2018, giảm sức ép rủi ro biến động tỷ giá và lãi suất trên thị trường quốc tế.

“Tóm lại, kết quả cơ cấu lại ngân sách nhà nước 3 năm là tích cực, bám sát nghị quyết của Quốc hội và tính bền vững của ngân sách nhà nước được củng cố. Trong trường hợp không có những biến động lớn cùng với dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 đang trình với Quốc hội, các mục tiêu cơ bản của kế hoạch tài chính ngân sách 5 năm giai đoạn 2016 - 2020 sẽ cơ bản được hoàn thành”, tư lệnh ngành Tài chính cho biết.

"Vay đảo nợ" đã giảm mạnh

Về băn khoăn của Đại biểu Quốc hội về nghĩa vụ chi trả nợ gốc có xu hướng tăng nhanh, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, “điều này là đúng”.

Bởi vì, trong giai đoạn 2012-2014, trước tác động của khủng hoảng tài chính toàn cầu, để có nguồn lực ổn định vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, chúng ta đã phải huy động một lượng lớn trái phiếu chính phủ kỳ hạn 3-5 năm, dẫn đến nhu cầu trả nợ gốc chủ yếu vào thời điểm hiện nay. Bên cạnh đó, các khoản vay ODA trước đây hết thời gian ân hạn về trả nợ gốc, cùng với việc phải áp dụng điều khoản trả nợ nhanh đối với nguồn vốn vay IDA, ADF, nên áp lực trả nợ gốc gia tăng.

“Tuy nhiên, so với mấy năm trước, áp lực huy động cho NSNN, bao gồm vay cho bù đắp bội chi và vay trả nợ gốc – hay nôm na là vay đảo nợ, đã giảm mạnh. Cụ thể, năm 2018, tổng mức vay của NSNN là 363 nghìn tỷ đồng, trong khi năm 2014 là 441 nghìn tỷ đồng, năm 2015 là 447 nghìn tỷ đồng, năm 2016 là 389 nghìn tỷ đồng”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết thêm.

Việc kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu nợ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp tục cải thiện mức xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam (năm 2018, Fitch và Moody’s đã lần lượt nâng bậc hệ số tín nhiệm của Việt Nam lên mức BB/Ba3). Tháng 7 vừa qua, Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF cũng nhận định tình hình tài chính công của Việt Nam trong trung hạn ở mức ổn định, rủi ro khủng hoảng nợ ở mức thấp.

Đối với nợ nước ngoài của Chính phủ, đã tích cực cơ cấu lại theo hướng giảm dần tỷ trọng từ 60% năm 2011 xuống còn khoảng 40% cuối năm 2018. Theo đó, tỷ lệ nợ nước ngoài của Chính phủ giảm từ mức 24% GDP vào cuối năm 2011 xuống còn 21% GDP giai đoạn 2016-2018. Đối với nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh, đã hạn chế cấp bảo lãnh cho các dự án mới. Theo đó, dư nợ được Chính phủ bảo lãnh giảm từ mức 10,9% GDP năm 2015 xuống còn 8,7% GDP năm 2018; trong đó bảo lãnh nước ngoài giảm từ mức 5,9% GDP vào cuối năm 2015 xuống còn khoảng 5% GDP vào cuối năm 2018.

Riêng đối với nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp (hiện chiếm khoảng 50% tổng nợ nước ngoài của quốc gia), Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, nợ có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây và là nguyên nhân chính dẫn đến gia tăng nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP. Riêng năm 2017, nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp tăng tới 42%, trong đó có khoản vay của Công ty Vietnam Beverage trị giá 4,8 tỷ USD để mua cổ phần Sabeco...

Việc điều chỉnh tăng kế hoạch vốn ngoài nước phải có sự phối hợp chặt chẽ của các địa phương

Về quản lý vốn ODA, theo luật mới Bộ Tài chính là đầu mối về đàm phán ký kết, Bộ trưởng Dũng cho biết, đang phối hợp tích cực với các cơ quan, như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước để triển khai.

Chúng tôi đồng tình việc Chính phủ báo cáo tăng 60 ngàn tỷ đồng do vay ODA để điều chỉnh vốn vay nước ngoài nhưng nằm trong cơ cấu tổng vay của ngân sách nhà nước trong 5 năm. cũng như điều chỉnh giảm trái phiếu chính phủ tương ứng để giữ trần bội chi và nợ công”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh.

Đối với các dự án vốn ngoài nước cấp phát cho địa phương một phần và cho vay lại một phần, theo Bộ trưởng, việc điều chỉnh tăng kế hoạch vốn ngoài nước đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của các địa phương để đảm bảo tiến độ giải ngân và giữ các chỉ tiêu bội chi, nợ công, nợ chính quyền địa phương đã được Quốc hội quyết định.

Với nguyên tắc bổ sung kế hoạch vốn ngoài nước trên cơ sở giảm kế hoạch nguồn vốn trái phiếu chính phủ, nên về cơ bản, các mục tiêu bội chi NSNN, nợ công đến năm 2020 sẽ không bị tác động.

Tuy nhiên, để tránh các áp lực trong việc thực hiện các mục tiêu giảm dần bội chi, nợ công từ năm 2021 trở đi theo Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị, không chỉ đánh giá các tác động bội chi, nợ công trong kỳ trung hạn 2016-2020, mà phải đánh giá các tác động bội chi, nợ công của toàn bộ kỳ Hiệp định đối với các dự án xem xét bổ sung vào kế hoạch trung hạn 2016-2020; trên cơ sở đó rà soát, lựa chọn, bổ sung các dự án thỏa mãn các điều kiện về tính cần thiết, cấp bách, ưu tiên sử dụng vốn ngoài nước, đủ điều kiện giải ngân; đồng thời các tác động của tổng quy mô giá trị vốn vay theo Hiệp định đối với bội chi NSNN, nợ công ở mức hợp lý./.