Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010 đã quy định mục tiêu duy nhất của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu của Học viện Chính sách phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) đã chỉ ra rằng, chính sự dự báo lạm phát và công tác lập kế hoạch không có tính chiến lược là nguyên nhân khiến chính sách tiền tệ bị động, liều lượng cung tiền và biện pháp kiểm soát cũng bị động.

Do kỳ vọng quá cao muốn ổn định nhanh kinh tế vĩ mô và dự báo lạm phát không tốt, nên năm 2011 mục tiêu là kìm giữ lạm phát dưới 7%, là mức quá thấp so với mức lạm phát bình quân của 3 năm liền trước đó là 12,73%. Theo mục tiêu này, Ngân hàng Nhà nước bắt buộc phải cắt giảm cung tiền, giảm tăng trưởng tín dụng đột ngột nên đã gây ra các hệ quả không như mong muốn đó là lãi suất cao, nợ xấu tăng, thanh khoản căng thẳng, bất động sản đóng băng, chứng khoán suy kiệt. Kết quả là lạm phát 2011 thì vọt lên 18,13%. Mức lạm phát này là hệ quả tất yếu của việc mở rộng cung tiền quá mức và tăng trưởng tín dụng quá nóng trong giai đoạn trước đó và một phần xuất phát từ việc điều hành chính sách tiền tệ thiếu chủ động.

Xét về tổng cầu, tính trung bình, cung tiền M2 và tín dụng tăng khoảng 31,17%/năm và 35,17%/năm cho giai đoạn 2004-2010, điều này đã tạo những hệ lụy của năm 2011 và 2012.

Trong giai đoạn 2004-2012, trong 9 năm đã xảy ra 3 vòng xoáy lạm phát, trong khi năm 2012 lạm phát chỉ ở mức 6,81%, tăng trưởng tín dụng thấp chỉ ở mức 7%.

TS. Nguyễn Thạc Hoát (Học viện Chính sách): “Kết quả kiểm soát lạm phát 2012 là thành công bước đầu. Tuy nhiên tỷ lệ lạm phát ở mức thấp trong điều kiện nền kinh tế đang khó khăn, tổng cầu suy giảm quá mức sẽ gây những khó khăn cho kinh tế vĩ mô. Nếu tỷ lệ lạm phát 2012 ở mức 9% thì hiệu quả của chính sách tiền tệ đạt được sẽ cao hơn rất nhiều”.

Đồng tình với TS. Hoát, PGS.TS. Đào Văn Hùng thẳng thắn: “Việc áp dụng quá nhiều biện pháp hành chính trong thời gian qua thực sự là một bước thụt lùi sau nhiều nỗ lực chỉ tiêu hóa, vận hành theo thị trường khiến thị trường méo mó. Do đó, cần thời gian để lấy lại sự cân bẳng của thị trường”.

Nhìn từ năm 2011 đến nay, thông thường quý I, Ngân hàng Nhà nước hay thắt chặt tăng trưởng tín dụng và cung tiền. Đến cuối năm lại mở mạnh ra thì lúc đó nền kinh tế không còn sức hấp thụ. Do đó, “năm 2013 không nên lặp lại cách điều hành này, mà nên đi theo nguyên tắc thị trường để thị trường tái lập sự cân bằng”, ông Hùng đề xuất.

Tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế được phản ánh của hình ảnh lạm phát.. Cụ thể, chính sách tiền tệ đã được điều hành và cho thấy rõ ràng trong năm 2012 chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng trong kiềm chế lạm phát.

Kinh nghiệm cho thấy, cứ đằng sau đợt sóng tăng tín dụng lại là một đợt sóng tăng lạm phát, với quy luật trong vòng 6 tháng. “Vậy bây giờ tín dụng bắt đầu lạm phát liệu có lạm phát tăng trở lại ở 2013?”, TS. Trịnh Quang Anh đặt câu hỏi.

Đừng bắt chính sách tiền tệ làm việc quá sức

Phát biểu tại Hội thảo, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông cho biết, chính sách tiền tệ không thể có hiệu quả khi nền kinh tế thực đang ốm yếu như hiện nay. Vì thế, “đừng bắt chính sách tiền tệ làm việc quá sức!”, Thứ trưởng cho hay.

Trên vị trí của người quản lý, Thứ trưởng Đông chia sẻ rằng, cũng nhận thấy điều hành giật cục. “Phải chăng chính sách tiền tệ và tài khoá không song hành, hoặc có song hành nhưng không đều bước?”, Thứ trưởng băn khoăn.

Chỉ ra, một bất cập quan trọng nữa đó là câu chuyện phối hợp chính sách, TS.Đặng Ngọc Đức – Phó Viện trưởng Viện Tài chính-Ngân hàng (Đại học Kinh tế quốc dân) dẫn luôn thực tế khi chính sách tiền tệ đang hướng đến hỗ trợ sản xuất kinh doanh thì tài khóa tăng thuế phí.

“Tại sao khi ban hành chính sách không tính đến tác động qua lại giữa chính sách tài khóa tới hiệu quả chính sách tiền tệ thế nào”, ông Đức đặt vấn đề.

Về vấn đề này, TS. Nguyễn Đình Ánh chia sẻ, cái gốc của việc phối hợp mà chưa bàn tới đó là tài chính và tiền tệ bám theo trục nào để phối hợp?

Bộ Tài chính chỉ quan tâm tới thu – chi ngân sách sao cho đủ và vượt dự toán. Và với tư duy như thế thì khó có thể hỗ trợ thực sự cho doanh nghiệp đang khó khăn. “Nếu cứ nói hỗ trợ doanh nghiệp mà lại cứ lo bị giảm nguồn thu thì sẽ không có sự hỗ trợ thực sự », ông Ánh lo ngại.

“Năm 2012 này đã khó khăn hơn năm 2011 rất nhiều, việc điều hành cũng khó khăn hơn nhiều và 2013 còn khó hơn nữa. Khó khăn như vậy, doanh nghiệp “chết” hàng loạt như vậy mà thu ngân sách vẫn đạt dự toán, vẫn thêm nhiều loại phí rõ là không tài khóa vẫn lo thành tích đảm bảo nhiệm vụ thu”, TS.Lưu Bích Hồ - Nguyên Viện trưởng Viện chiến lược (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thẳng thắn.

Hiện tại, Bộ Tài chính đã chủ động đề xuất một số giải pháp cho năm 2013 như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hoàn thuế bảo vệ môi trường cho túi ni lông, tiếp tục gia hạn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng, giảm tiền thuê đất… những giải pháp này tuy được đánh giá là “đã mạnh hơn năm 2012”. Nhưng, các ý kiến bình luận vẫn chưa thỏa mãn khi cho rằng vẫn là những khoản cho doanh nghiệp nợ và doanh nghiệp đã khó khăn không có doanh thu không có lợi nhuận thì coi như không được hỗ trợ gì.

Một số ý kiến khác cho rằng chính sách tài khóa phải chấp nhận không thu một số khoản coi như “cho” doanh nghiệp chứ không phải “cho nợ” mới mong vực dậy được sản xuất.

Phương Anh