Báo cáo tại Họp báo công bố Kết quả chính thức Tổng Điều tra kinh tế năm 2017, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, TS. Nguyễn Bích Lâm cho biết, tính đến năm 2016, Việt Nam có 1.687 doanh nghiệp nhận gia công hàng hóa cho nước ngoài và có 52 doanh nghiệp Việt Nam gửi nguyên liệu ra nước ngoài thuê gia công.

Trị giá hàng hóa sau gia công, lắp ráp bán tại Việt Nam so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công thấp với 3,9%

Ông Nguyễn Bích Lâm cho biết, việc tổ chức thu thập thông tin về tình hình gia công hàng hóa của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thuộc một số hoạt động có tỷ lệ gia công cho các đối tác nước ngoài là nội dung mới trong cuộc Tổng Điều tra lần này.

Kết quả điều tra cho thấy, trong năm 2016, hoạt động gia công hàng hóa của doanh nghiệp Việt Nam đã mang lại nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế là 8,6 tỷ USD, tạo việc làm cho hơn 1 triệu lao động.

Trong đó, phí gia công của hàng dệt may và giầy dép chiếm trọng số lớn nhất trong hoạt động gia công, lắp ráp hàng hóa cho nước ngoài. Nhóm hàng dệt may đứng đầu với số ngoại tệ thu về 4,1 tỷ USD, chiếm 48% tổng phí gia công; Giầy dép 2,7 tỷ USD, chiếm 32% tổng phí gia công; lắp ráp điện thoại 268 triệu USD, chiếm 3,1%; Lắp ráp điện tử máy tính 63 triệu USD, chiếm 0,7% và gia công hàng hóa khác thu được 1,4 tỷ USD, chiếm 16,2%.

Tổng giá trị nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp đạt 20,2 tỷ USD, chiếm 11,5% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước; kim ngạch xuất khẩu sản phẩm sau gia công, lắp ráp đạt 32,4 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó, các doanh nghiệp FDI chiếm trọng số lớn nhất với giá trị hàng hóa sau gia công đạt 25,6 tỷ USD, chiếm tới 78,9% tổng giá trị hàng hóa sau gia công, cùng với đó nguyên liệu nhập khẩu cho gia công của các doanh nghiệp FDI là 16,3 tỷ USD, chiếm 80,5% tổng giá trị nguyên liệu nhập khẩu.

Hoạt động gia công hàng hóa với nguyên liệu đầu vào do đối tác nước ngoài cung cấp và sở hữu nên tỷ lệ giá trị nguyên liệu nhập khẩu về để gia công, lắp ráp so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công ở mức khá cao 62,3%.

Trong đó, tỷ lệ này cao nhất ở nhóm hàng Điện thoại với 78,9%, nhóm hàng Điện tử máy tính 76,4%, nhóm Dệt may 67,1%, nhóm Giầy dép 47% và nhóm hàng hóa khác là 74,7%.

“Số liệu cho thấy, với nhóm hàng Điện thoại và Điện tử máy tính gần như doanh nghiệp Việt Nam chỉ thu được phí gia công, lắp ráp do nước ngoài trả mà không cung cấp nguyên liệu phụ trợ sản xuất trong nước cho hoạt động gia công đối với 2 nhóm hàng này”, người đứng đầu cơ quan thống kê trung ương cho biết.

Tuy nhiên, tỷ lệ này ở nhóm hàng giầy dép và dệt may thấp hơn cho thấy ngoài nguyên liệu nhập khẩu từ nước thuê gia công, doanh nghiệp Việt Nam có cung cấp thêm nguyên liệu đầu vào sản xuất trong nước phục vụ cho quá trình gia công.

Như vậy, với nhóm hàng dệt may và giầy dép ngoài khoản thu về phí gia công chúng ta còn thu được một khoản ngoại tệ từ việc cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ quá trình gia công, góp phần nâng cao tỷ lệ nội địa hóa đối với nhóm hàng dệt may và giầy dép.

Các đối tác chính đặt hàng các doanh nghiệp Việt Nam gia công, lắp ráp hàng hóa trong năm 2016 gồm 5 quốc gia và vùng lãnh thổ: Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Hầu hết sản phẩm sau khi gia công, lắp ráp được xuất khẩu trở lại cho nước đặt gia công hoặc xuất khẩu cho nước khác theo chỉ định của nước đặt gia công. Trị giá hàng hóa sau gia công, lắp ráp bán tại Việt Nam so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công thấp với 3,9%, trong đó thấp nhất là Điện thoại và Dệt may, tỷ lệ được để lại tiêu thụ tại Việt Nam tương ứng là 0,2% và 1%.

Điều tra cũng cho biết, năm 2016, tổng số phí các doanh nghiệp Việt Nam trả cho đối tác nước ngoài về thực hiện hoạt động gia công, lắp ráp là 8,2 triệu USD.

Trong đó, nhóm hàng Điện tử máy tính đạt 6 triệu USD, chiếm 72,5% tổng số phí mà các doanh nghiệp Việt Nam trả cho đối tác nước ngoài; Dệt may 0,5 triệu USD, chiếm 6,3% và nhóm Hàng khác 1,7 triệu USD, chiếm 21%.

Phí gia công các doanh nghiệp Việt Nam trả cho đối tác nước ngoài so với tổng giá trị hàng hóa sau gia công ở mức khá cao với 56,2%. Bên cạnh đó, giá trị nguyên liệu do doanh nghiệp Việt Nam gửi ra nước ngoài thuê gia công, lắp ráp chỉ chiếm 45,3% tổng giá trị hàng hóa sau gia công lắp ráp. Như vậy, ngoài phí gia công trả cho nước ngoài các doanh nghiệp

Việt Nam còn phải trả thêm chi phí cho việc mua nguyên liệu, linh kiện phục vụ cho quá trình gia công, lắp ráp.

Các đối tác thực hiện gia công, lắp ráp hàng hóa cho Việt Nam chủ yếu là Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc./.