Hội thảo nhằm lấy ý kiến cho việc soạn thảo một số nội dung của Luật Doanh nghiệp sửa đổi. Trong đó, cần làm rõ và tiến tới thống nhất cách định nghĩa doanh nghiệp nhà nước, vấn đề quản lý, tác động của các cách đánh giá đối với nền kinh tế...

Phát biểu tại hội thảo, ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng CIEM cho biết, Nghị quyết số 12-NQ/TW quy định doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối. Báo cáo số 480/BC-CP, ngày 12/10/2018 đã thống kê, cả nước có 526 doanh nghiệp do nhà nước nắm 100% vốn và có 294 công ty cổ phần có cổ phần nhà nước do bộ, UBND quản lý.

Ông Phan Đức Hiếu phát biểu tại hội thảo.

Còn theo Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 01/01/2018, cả nước có 1.204 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc mọi cấp độ quản lý; 1.282 công ty cổ phần có cổ phần nhà nước lớn hơn 50% thuộc mọi cấp quản lý (bao gồm cả công ty con của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước). Nếu mở rộng tối đa khái niệm doanh nghiệp nhà nước, thì có thêm ít nhất 1.282 công ty cổ phần được gọi là doanh nghiệp nhà nước và trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước.

Như vậy, có thể thấy rằng, đến nay vẫn chưa có cách hiểu chưa nhất quán về cách phân biệt, nhận định doanh nghiệp nhà nước. Từ đó gây ra sự khó khăn trong quản lý, hình thức kế toán, kiểm toán, quyết định kinh doanh, cách điều hành đối với các doanh nghiệp. Hơn nữa, còn cản trở hoạt động của doanh nghiệp.

Theo báo cáo của Ban Nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp (CIEM), hiện nay, có 9 luật quy định về chủ thể doanh nghiệp nhà nước, bao gồm: Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Quản lý tài sản công, Luật Tiếp cận thông tin, Bộ luật Dân sự, Luật Thủy lợi, Luật Lâm nghiệp, Luật Kiểm toán nhà nước.

Trong đó, các luật gây tác động trực tiếp nếu 1 doanh nghiệp được xác định là doanh nghiệp nhà nước, đó là: Luật Đấu thầu: toàn bộ các dự án đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước (từ mọi nguồn vốn) phải thực hiện theo Luật; Luật Xây dựng: Điều 60 quy định về thẩm quyền quyết định đầu tư xây dựng đối với dự án sử dụng vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước và Điều 63 quy định về thẩm quyền của người đại diện của doanh nghiệp nhà nước trong việc thành lập bán quản lý dự án đầu tư xây dựng chuyên ngành và ban quản lý dự án đầu tư xây dựng khu vực; Luật Ngân sách nhà nước: (Điều 5, 35 và 37) thu ngân sách nhà nước bao gồm:... “các khoản phí thu từ hoạt động dịch vụ do doanh nghiệp nhà nước thực hiện nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật”. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn chịu sự tác động của các văn bản dưới luật.

Ban Nghiên cứu của CIEM đưa ra kiến nghị phương án quy định khái niệm doanh nghiệp nhà nước tại Luật Doanh nghiệp. Cụ thể, nếu Nhà nước góp trên 65% vốn điều lệ, thì sẽ có quyền chi phối tuyệt đối; quyết định tất cả các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp. Nếu góp trên 50% vốn điều lệ, thì có quyền chi phối chủ động và quyết định phần lớn các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp; còn nếu góp trên 35% vốn điều lệ, thì có quyền chi phối “thụ động”/thực hiện quyền phủ quyết để định hướng doanh nghiệp.

Ông Phan Đức Hiếu cũng cho biết thêm, trước đây Luật Doanh nghiệp quy định doanh nghiệp nhà nước là 100% vốn nhà nước, nhưng Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII lại có những định hướng khác, bao gồm cả những doanh nghiệp chiếm phần vốn chi phối. Do vậy, cần sửa đổi các quy định để thể chế hóa quan điểm đó.

Đồng quan điểm, ông Lê Song Lai, Phó Tổng giám đốc SCIC cho rằng, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được xác định là 3 trụ cột của nền kinh tế. Trong đó, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Thời gian qua, vai trò của doanh nghiệp nhà nước và nội hàm của các doanh nghiệp nhà nước đang thu hút sự quan tâm. Có 2 vấn đề cần được làm rõ, thứ nhất là nội hàm của các khái niệm. Chẳng hạn như vốn nhà nước, khái niệm cũng cần phải làm rõ; thứ hai, đánh giá tác động có thể có nếu khái niệm doanh nghiệp nhà nước được thay đổi, kể cả đối với các hiệp định tự do thương mại như Hiệp đinh Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).

Việc sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước sẽ mở rộng phạm vi, đối tượng được áp dụng và thay đổi cách quản trị của các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp này sẽ tuân thủ hàng loạt các luật và các quy định về nhân sự, kiểm toán, thanh tra… SCIC hiện đang quản lý 144 doanh nghiệp, có 51% có vốn nhà nước.

Góp ý về vấn đề này, chuyên gia kinh tế Lê Xuân Bá, nguyên Viện trưởng CIEM cho rằng, đơn vị soạn thảo nội dung sửa đổi Luật Doanh nghiệp cần có đánh giá tác động của những thay đổi kỹ càng, đồng thời, bám sát quan điểm đổi mới, đưa các ý tưởng, nội dung tiến bộ vào Luật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phát triển tối đa, với tinh thần cởi mở và minh bạch. Không nên mở rộng phạm vi quy định đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là những trường hợp Nhà nước góp ít vốn.

Ngoài ra, "cần lưu ý rằng, trên thực tế khu vực doanh nghiệp nhà nước thường hoạt động thiếu hiệu quả hơn so với doanh nghiệp tư nhân để có những ý kiến phù hợp, thiết thực", PGS, TS. Lê Xuân Bá nhấn mạnh./.