Chương trình cổ phần hóa các DNNN của Chính phủ Việt Nam đã gặt hái được một số thành công. Tuy nhiên, quá trình này thời gian gần đây đã bị chậm lại một phần do sự trì trệ của TTCK.

Ông Dominic Scriven cũng nhấn mạnh rằng, TTCK rất cần những “hàng hóa có chất lượng” để thu hút nhà đầu tư cả trong và ngoài nước. Do đó, thay mặt Nhóm công tác, ông đề nghị Chính phủ cần tăng tốc chương trình cổ phần hóa thông qua việc xác định một lộ trình mới với các tiêu chí rõ ràng và thời gian biểu cụ thể.

“Cổ phần hóa DNNN không nên chỉ quan tâm nhiều đến các khía cạnh tài chính mà còn những yếu tố khác như cơ cấu lại khu vực quốc doanh”, ông Dominic Scriven nhấn mạnh.

Ông này cũng cho biết, cổ phần hóa là xương sống của các chính sách kinh tế phù hợp, vì thế cần học hỏi kinh nghiệm của những thị trường mới nổi khác.

Một vấn đề được coi là không đổi trong báo cáo của nhóm công tác về vấn đề cổ phần hóa, đó tiếp tục là vấn đề Định giá và cách duy nhất để làm được điều này là thuê tư vấn độc lập (các ngân hàng đầu tư danh tiếng) có khả năng đứng ra định giá và chào bán cổ phần theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Quan ngại về việc có thể bán tài sản của nhà nước với giá quá rẻ và phải chịu trách nhiệm là những rủi ro gắn liền với quá trình này, và điều đáng nói là phần lớn những đợt cổ phần hóa thành công đều là những trường hợp mà chủ sở hữu có sự phân bổ lợi ích để thu hút nhà đầu tư. Định giá phát hành quá cao thường dẫn tới thất bại, hơn nữa cũng cần bán một tỉ lệ đáng kể để thị trường bảo đảm có thanh khoản, chứ không chỉ là mức vài phần trăm sở hữu.

Nhóm công tác cũng tiếp tục chỉ ra hai lĩnh vực cần phải tiến hành cổ phần hóa trước mắt là viễn thông và ngân hàng.

Ghi nhận những nỗ lực của Chính Phủ trong công tác điều hành như kìm hãm lạm phát, ổn định tỷ giá và gia tăng dự trữ ngoại hối, từng bước cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, thành lập Công ty quản lý tài sản quốc gia (VAMC) để xử lý nợ xấu… Tuy nhiên, ông Dominic Scriven khẳng định, để cho các chính sách đúng đắn có thể thành công thì việc nhanh chóng triển khai các chính sách đóng vai trò rất quan trọng. Bởi, theo đánh giá của nhóm công tác, thì việc triển khai các chính sách trong thời gian qua còn khá chậm.

Điển hình là việc luật đã có quy định doanh nghiệp cổ phần hoá phải niêm yết trong vòng 12 tháng, tuy nhiên trên thực tế quy định này không được tuân thủ triệt để. Điều này không tạo sự phát triển lành mạnh cho TTCK, nhất là trong bối cảnh đang thiếu cung chất lượng cao hiện nay. Vì thế, Nhóm công tác đề xuất Chính phủ cần bắt buộc các doanh nghiệp phải niêm yết trong vòng một tháng sau khi cổ phần hoá.

Để phát triển và ổn định TTCK, ông Dominic Scriven cũng cho rằng cần làm rõ vai trò của SCIC. Bởi, đó là nhà đầu tư tổ chức lớn nhất trên thị trường, vì thế SCIC rõ ràng đóng một vai trò quan trọng và các bước đi của tổ chức này có tác động rất nhạy cảm đến tâm lý thị trường. Ông Dominic Scriven cũng đề nghị SCIC cũng phải tuân thủ các quy định về công bố thông tin như các chủ thể khác đang tham gia thị trường

Tỷ lệ sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục là chủ đề không mới đối với nhóm công tác này. Theo ông Dominic Scriven, một thị trường mở thực sự không nên tồn tại sự hạn chế về tỷ lệ sở hữu đối với nhà đầu tư nước ngoài. Vì thế, ông đề xuất một số gợi ý sau:

Thứ nhất, cho phép nhà đầu tư nước ngoài được sở hữu đến 100% cổ phần trong các công ty Việt Nam trong các lĩnh vực, ngành phù hợp với lộ trình cam kết WTO của Việt Nam.

Thứ hai, cần xây dựng một cơ chế để cho nhà đầu tư nước ngoài có thể giao dịch cổ phiếu trong các công ty hết “room” một cách thuận lợi, minh bạch. Bảng giao dịch riêng cho nhà đầu tư nước ngoài là một gợi ý.

Thứ ba, phát hành cổ phiếu không có quyền biểu quyết (non-voting shares) dành riêng cho nhà đầu tư nước ngoài. Một điển hình áp dụng loại hình cổ phiếu không có quyền biểu quyết này là Thái Lan, thông qua việc thành lập Thai NVDR Co., được sở hữu 100% bởi Sở Giao dịch Chứng khoán Thái Lan. Công ty này có trách nhiệm phát hành và bán các cổ phiếu không có quyền biểu quyết (Thai non-voting depository receipts) cho nhà đầu tư nước ngoài. Mục đích của loại cổ phiếu này là cung cấp một công cụ đầu tư, cho phép nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư và hưởng các quyền lợi tài chính (cổ tức, quyền mua cổ phiếu phát hành thêm…) trong các công ty nội địa nhưng đồng thời giới hạn họ không tham gia vào việc biểu quyết các vấn đề của công ty./.