Về thẩm quyền, Thông tư 08 quy định, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư quyết định phê duyệt đối với các khoản đóng góp phải hoàn trả, ủy thác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Chủ tịch Hội đồng thành viên Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa có thẩm quyền phê duyệt các khoản tài trợ, đóng góp, ủy thác của các tổ chức, cá nhân trong nước.

Thông tư 08 cũng quy định các hình thức tiếp nhận tài trợ, đóng góp, nhận ủy thác. Cụ thể, nếu tài trợ, đóng góp bằng tiền, nhà tài trợ, bên đóng góp thực hiện chuyển tiền tài trợ, đóng góp bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ cho Quỹ thông qua tài khoản của Quỹ mở tại ngân hàng thương mại. Đối với tài trợ, đóng góp bằng hiện vật, nhà tài trợ, bên đóng góp chuyển giao cho Quỹ các hiện vật như máy móc, trang thiết bị, phương tiện giao thông, đất đai, công trình xây dựng và các hiện vật khác có giá trị sử dụng. Đối với hiện vật có nguyên giá trên thị trường từ 500 triệu đồng trở lên, Quỹ phải thuê tổ chức thẩm định giá tài sản; thời điểm định giá không quá 06 tháng tính đến thời điểm lập hồ sơ phê duyệt tài trợ, đóng góp.

Đối với khoản đóng góp phải hoàn trả, Quỹ thực hiện hoàn trả theo thỏa thuận đã ký kết giữa các bên. Đối với bên ủy thác, bên ủy thác sẽ chuyển khoản tiền ủy thác bằng đồng Việt Nam hoặc đô-la Mỹ cho Quỹ thông qua tài khoản của Quỹ mở tại ngân hàng thương mại.

Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do Thủ tướng Chính phủ thành lập. Quỹ hoạt động theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Vốn điều lệ tối thiểu của Quỹ là 2.000 tỷ đồng.

Quỹ được thành lập để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có dự án, phương án sản xuất - kinh doanh khả thi thuộc lĩnh vực ưu tiên, khuyến khích của Nhà nước, phù hợp với mục đích hoạt động của Quỹ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần làm tăng thu nhập, tạo việc làm cho người lao động.

Đối tượng thụ hưởng: doanh nghiệp nhỏ và vừa trên toàn quốc trực tiếp đầu tư, sản xuất - kinh doanh thuộc Danh mục các lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ của Quỹ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành trong từng thời kỳ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có dự án, phương án sản xuất - kinh doanh khả thi được hỗ trợ vay vốn từ Quỹ, thì không được hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước.

Quỹ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay nếu có đủ các điều kiện. Thứ nhất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có dự án, phương án sản xuất - kinh doanh khả thi thuộc Danh mục các lĩnh vực ưu tiên hỗ trợ của Quỹ. Thứ hai, chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa thực hiện dự án, phương án sản xuất - kinh doanh có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Thứ ba, phải đảm bảo nguồn vốn chủ sở hữu tham gia dự án, phương án sản xuất kinh doanh tối thiểu 20% và phải đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất - kinh doanh. Thứ tư, có khả năng trả nợ trong thời hạn quy định tại hợp đồng tín dụng đã ký kết. Thứ năm, thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của pháp luật hiện hành.

Mức vốn cho vay đối với mỗi dự án, phương án sản xuất - kinh doanh tối đa bằng 70% tổng mức vốn đầu tư của từng dự án, phương án đó (không bao gồm vốn lưu động) nhưng không quá 30 tỷ đồng. Thời hạn cho vay tối đa không quá 7 năm. Trường hợp đặc biệt, đối với những dự án có chu kỳ sản xuất dài, cần thời hạn vay vốn lớn hơn, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ quyết định thời hạn cho vay nhưng không quá 10 năm.

Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam do Tổng cục Thống kê công bố trong 2 năm gần đây cho biết, loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trên 98% tổng số doanh nghiệp được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, trong đó doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm tỷ trọng khoảng 63% số doanh nghiệp cả nước. Đây là khối doanh nghiệp rất cần nhận được sự hỗ trợ từ các nguồn vốn ưu đãi để trụ vững và phát triển trên thương trường.

Về phía các doanh nghiệp, doanh nghiệp thuộc khối nhỏ và vừa có cơ hội tiếp cận các khoản vay với lãi suất ưu đãi từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, với những điều khoản cụ thể được quy định tại Nghị định số 39/2019/NĐ-CP./.