15 tập đoàn, tổng công ty còn trên 90% vốn nhà nước

Theo báo cáo về tình hình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 2011-2015 và 9 tháng 2016 vừa được Chính phủ gửi tới Quốc hội, 5 năm qua đã có 508 doanh nghiệp được cổ phần hoá với tổng giá trị doanh nghiệp thực tế gần 761.000 tỷ đồng, trong đó giá trị phần vốn nhà nước hơn 188.270 tỷ đồng. Tốc độ cổ phần hoá các “ông lớn” doanh nghiệp được ghi nhận tăng lên nhanh chóng trong 5 năm qua. Đơn cử, năm 2015 có 220 doanh nghiệp được cổ phần hoá, gấp hơn 15 lần con số của 4 năm trước.

Hiện tại, vốn nhà nước còn lại ở Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam là 94,99% (ảnh minh hoa: KT)

Cũng theo báo cáo của Chính phủ, trong số 557 doanh nghiệp được phê duyệt phương án cổ phần hóa trong giai đoạn từ 2011 đến hết tháng 9/2016 đã có 426 doanh nghiệp triển khai xong việc bán cổ phần lần đầu, thu về 43.475 tỷ đồng. Trong đó, có 70 doanh nghiệp nhà nước nắm giữ trên 90% vốn điều lệ, bao gồm 15 tập đoàn và tổng công ty.

Cụ thể, tốc độ cổ phần hóa được đẩy mạnh trong 2 năm nước rút. Theo đó, trong năm 2012 chỉ cổ phần hóa được 26 doanh nghiệp, năm 2013 là 73 doanh nghiệp, năm 2014 là 175 doanh nghiệp và con số này trong năm 2015 là 220 doanh nghiệp. Số còn lại đang tiến hành các bước để triển khai bán cổ phiếu lần đầu.

Hiện tại, vốn nhà nước còn lại ở Tổng công ty Lilama là lớn nhất, chiếm tới 98%. Tiếp đó, lần lượt là Tổng công ty Hàng không Việt Nam với tỷ lệ Nhà nước nắm giữ vốn 95,5%; Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam là 94,99%; Tổng công ty Thép Việt Nam là 93,6%; Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam có 92,5%; Tổng công ty Viglacera khoảng 93% vốn điều lệ…

Trong 557 doanh nghiệp được phê duyệt cổ phần hóa từ 2011 đến hết tháng 09/2016 đã có 426 doanh nghiệp triển khai xong việc bán cổ phần lần đầu. Nhưng chỉ có 254 doanh nghiệp bán được toàn bộ số cổ phần theo phương án cổ phần hóa, đạt 60% tổng số doanh nghiệp đã bán cổ phần. Khoảng172 doanh nghiệp không bán được toàn bộ số cổ phần theo phương án cổ phần hóa (chiếm 40% tổng số doanh nghiệp đã bán cổ phần). Tổng giá trị cổ phần đã bán ra tính theo mệnh giá là 34.911 tỷ đồng, nhưng đã thu được 43.475 tỷ đồng, tăng 8.563 tỷ đồng so với “giá gốc”..

Ngoài ra, Nhà nước còn nắm giữ 65% vốn tại 82 doanh nghiệp; giữ 50% vốn tại 96 doanh nghiệp; có 156 doanh nghiệp nhà nước nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ và 22 doanh nghiệp cổ phần hóa cùng công ty mẹ.

Giải thích về tỷ lệ vốn nhà nước tại các doanh nghiệp hiện còn cao, báo cáo chỉ ra, là do lượng cổ phần chào bán ra công chúng đạt thấp so với phương án cổ phần hóa doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp thuộc diện nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối khi cổ phần hóa còn lớn nên làm giảm mức độ hấp dẫn tham gia của nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp và là rào cản của quá trình đổi mới quản trị doanh nghiệp. Chính phủ cũng ghi nhận, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đều có tốc độ tăng trưởng ấn tượng cả về tài sản, vốn, doanh thu và lợi nhuận…

Tuy nhiên, Chính phủ cũng nhìn nhận cơ chế cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay đã bộc lộ một số điểm cần khắc phục và hoàn thiện. Cụ thể, cần tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp 100% vốn thuộc các tập đoàn, tổng công ty có quy mô lớn; rà soát lại cơ chế bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược tránh lợi dụng (đặc biệt là hạn chế phương thức bán thỏa thuận)…Bên cạnh đó, việc thoái vốn nhà nước ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa có gắn với quyền sử dụng đất cần phải được điều chỉnh, hoàn thiện để tránh thất thoát vốn nhà nước.

Chậm, nhưng có chắc?

Cũng theo báo cáo, trong 9 tháng năm 2016 đã có 49 doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa. Theo phương án đã được phê duyệt thì vốn điều lệ của 49 doanh nghiệp này khoảng 23.000 tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm giữ 11.100 tỷ đồng, bán cho nhà đầu tư chiến lược gần 7.500 tỷ đồng. Số lượng cổ phần bán đấu giá công khai ở mức xấp xỉ 4.100 tỷ đồng.

Bên cạnh đó, báo cáo của Chính phủ đánh giá rằng, việc tích cực thực hiện đẩy mạnh cổ phần hóa, hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã và đang được đổi mới, sắp xếp, thu gọn. Từ chỗ năm 2010 còn gần 1.500 doanh nghiệp nhà nước, sau khi tích cực thực hiện cổ phần hóa, số doanh nghiệp nhà nước tính đến hết năm 2015 còn 652 doanh nghiệp chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực then chốt, đảm bảo cân đối vĩ mô cho nền kinh tế, công ích, an ninh, quốc phòng.

Thực tế, đa phần các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán là các công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp nhà nước (khoảng 450/700 doanh nghiệp niêm yết). Như vậy, công tác cổ phần hóa đã góp phần thúc đẩy phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Nhìn vào số lượng 49 doanh nghiệp được phê duyệt trong 9 tháng đầu năm 2016, có nhiều quan ngại về tốc độ thực hiện cổ phần hóa đang chậm lại chăng?

Tuy nhiên, theo báo cáo chỉ ra, cơ chế cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hiện nay đã bộc lộ một số điểm cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn chỉnh cho phù hợp với thực tiễn như: cần tăng cường kiểm tra, giám sát các doanh nghiệp 100% vốn thuộc các Tập đoàn, Tổng công ty có quy mô lớn, rà soát lại cơ chế bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược tránh lợi dụng (đặc biệt là hạn chế phương thức bán thỏa thuận), rà soát việc xác định giá trị đất đai trong doanh nghiệp cổ phần hóa cho phù hợp với Luật Đất đai năm 2013.

Đặc biệt, việc thoái vốn nhà nước ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa có gắn với quyền sử dụng đất cần phải được điều chỉnh, hoàn thiện để tránh thất thoát vốn nhà nước./.