Về đích trước 3 năm

Theo Chương trình Mục tiêu Phát triển Lâm nghiệp Giai đoạn 2016-2020, đến năm 2020, kim ngạch xuất khẩu ngành gỗ đạt mức 8-8,5 tỷ USD. Tuy nhiên theo báo cáo của Hiệp hội Vifores, năm 2017, kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản đã đạt gần 8 tỷ USD. Hiện gỗ và sản phẩm gỗ của Việt Nam đang xuất khẩu sang khoảng 20 quốc gia, trong đó 4 thị trường chính là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc với giá trị kim ngạch từ 4 thị trường này lên tới trên 5,8 tỷ USD. EU cũng là một trong những thị trường quan trọng của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu năm 2017 sang EU chiếm 9,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành gỗ. Như vậy, ngành gỗ đã về đích trước thời hạn là 3 năm. Mức kim ngạch này, ngành đã có vị trí số 6 trong bảng xếp hạng các ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của cả nước.

Kim ngạch xuất khẩu gỗ về đích trước thời hạn 3 năm

“Như vậy là không chỉ về đích trước 3 năm, chế biến gỗ và xuất khẩu lâm sản hiện đang đứng trong top 10 các ngành đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của cả nước. Trong tổng kim ngạch 8 tỷ USD, có 300 triệu USD là giá trị xuất khẩu các sản phẩm lâm sản ngoài gỗ như sản phẩm mây tre, cói và thảm; 7,7 tỷ USD là xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ.”, ông Nguyễn Tôn Quyền cho biết.

Đánh giá về hoạt động xuất khẩu gỗ Việt Nam trong vài năm trở lại đây, ông Tô Xuân Phúc công tác tại Tổ chức Forest Trends, diễn giả tham gia hội thảo cho biết, ngành chế biến xuất khẩu gỗ cũng đang có những dịch chuyển theo hướng tăng cả lượng và chất. Năm 2017, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng trong nhóm sản phẩm gỗ (HS 94), là nhóm có giá trị gia tăng cao (cao hơn nhóm mặt hàng gỗ - HS 44) chiếm khoảng 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng từ con số 63,5% của năm 2015 và 2016. Gia tăng kim ngạch xuất khẩu chủ yếu là do mở rộng xuất khẩu trong nhóm mặt hàng ghế ngồi (HS 9401), đồ nội thất (HS 9403) và một số mặt hàng thuộc nhóm gỗ dán (HS 4412). Xuất khẩu các mặt hàng thuộc nhóm gỗ nguyên liệu (gỗ tròn, xẻ) giảm.

“Đây là một thành tích rất ấn tượng, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang đối mặt với một số biến động, với xu thế đi ngược lại với toàn cầu hóa, hạn chế hội nhập, bảo hộ sản xuất trong nước tại một số thị trường nhập khẩu chính. Đáng chú ý là hoạt động xuất khẩu đang theo hướng tăng cả lượng và chất là tín hiệu quan trọng phản ánh sự dịch theo hướng phát triển bền vững trong tương lai”, ông Phúc nói.

Lý giải giải nguyên nhân khiến việc xuất khẩu gỗ tăng nhanh trong vài năm trở lại đây, ông ông Huỳnh Văn Hạnh, Chủ tịch Hội Mỹ nghệ và Chế biến gỗ TP. Hồ Chí Minh (HAWA) cho biết, sự tụt giảm tính cạnh tranh của ngành gỗ Trung Quốc do ngành này bị Hoa Kỳ kiện bán phá giá và do chính sách áp dụng thuế xuất khẩu đồ gỗ của Chính phủ Trung Quốc. Bên cạnh đó, suy thoái kinh tế năm 2008-2009 tại châu Âu làm giảm sức sản xuất tại châu lục này, từ đó tạo cơ hội cho ngành gỗ Việt Nam. Ngoài ra, thiếu hụt lao động và giá lao động cao tại Trung Quốc, Malaysia và Indonesian – các quốc gia cạnh canh về chế biến gỗ xuất khẩu với Việt Nam cũng tạo cơ hội cho ngành gỗ chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam phát triển. Gần đây, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu của ngành đã được đẩy lên con số 10 tỷ USD đến 2020.

Cần lắm bắt cơ hội từ hiệp định CPTTP

Tại hội thảo, vấn đề Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTTP) chính thức được 11 nước thành viên tham gia ký kết vừa qua cũng được nhiều chuyên gia quan tâm. Theo ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (Vifores), việc tham gia Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mang đến nhiều cơ hội cho ngành gỗ Việt Nam hơn là thách thức. Chính vì vậy, các doanh nghiệp ngành gỗ cần lắm bắt cơ hội để vươn lên.

“Tham gia vào CPTPP còn có một số quốc gia có ngành công nghiệp gỗ mạnh, như Canada, với sản lượng một năm lên tới 600 triệu m3 gỗ. Vì vậy, cơ hội đối với ngành gỗ Việt Nam rất lớn. Hay các thành viên khác như: Nhật Bản, Malaysia đang là những nhà nhập khẩu lớn của gỗ Việt Nam. Hơn nữa, ngành công nghiệp của các thành viên tham gia CPTPP rất mạnh, rừng tốt, quản lý rất bài bản. Vì vậy, chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam có thể học cách quản trị kinh doanh một cách hiệu quả nhất”, ông Quyền nói.

Bên cạnh đó, ngay khi hiệp định CPTPP có hiệu lực, thuế quan sẽ lập tức xuống bằng 0, điều này mang lại lợi thế lớn cho Việt Nam. Đặc biệt, CPTPP sẽ giúp việc mua máy móc, thiết bị và công nghệ từ các quốc gia phát triển như Nhật Bản ... được thuận lợi hơn, khi thuế hạ xuống.

Tuy nhiên, Phó Chủ tịch Vifores cũng chỉ rõ, vấn đề lớn đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam là quyền sở hữu trí tuệ. Ông Quyền cho rằng, hiểu biết về sở hữu trí tuệ ngành gỗ của doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước còn hạn chế.

“Chúng ta đều sản xuất theo thiết kế đặt hàng của nước ngoài, vì vậy họ sẽ bảo vệ bản quyền đó. Muốn có thiết kế thì mình phải có thương hiệu, muốn có thương hiệu phải có sở hữu trí tuệ. Và muốn có sở hữu trí tuệ chúng ta phải có nhân lực, đào tạo. Đây là một vấn đề hết sức đau đầu. Có lẽ đã đến lúc ngành gỗ chúng ta phải bắt đầu từ bây giờ để có lộ trình triển khai, học tập để hiểu thế nào là sở hữu trí tuệ, thế nào là thực hiện sở hữu trí tuệ”, ông Quyền nói.

Bên cạnh đó, một thách thức được nhiều chuyên gia khuyến nghị đó là, khi thực thi hiệp định CPTPP sẽ liên quan tới rất nhiều đối tác không chỉ các doanh nghiệp gỗ, mà còn hộ gia đình trồng rừng, thương mại gỗ, vận tải gỗ, thương lái gỗ, chế biến gỗ … nhưng hiểu biết của họ về vấn đề này là rất hạn chế. Ngoài ra, cơ chế quản lý dữ liệu, lưu chép trên bản cứng và bản mềm cần được đầu tư để đào tạo, hướng dẫn càng sớm càng tốt. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng phải tự vươn lên, học hỏi để phát triển hội nhập. Đồng thời, phải sớm xây dựng hiệp hội trồng rừng để giúp xây dựng nguồn cung gỗ./.