Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, thì trong năm 2015, IIP quý 2 đạt mức cao nhất (tăng 10,2%), tiếp đến là quý 4 (tăng 10%), quý 1 và quý 3 (9,3%). Trong mức tăng chung cả năm của toàn ngành công nghiệp, ngành khai khoáng tăng 6,5% (năm 2014 tăng 2,4%), đóng góp 1,4 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,6% (năm 2014 tăng 8,7%), đóng góp lớn nhất vào mức tăng chung với 7,5 điểm phần trăm; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,4%, đóng góp 0,8 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 7,4%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm.

Xét theo công dụng của sản phẩm công nghiệp, chỉ số sản xuất của sản phẩm dùng cho quá trình sản xuất năm 2015 tăng 9,4% so với năm 2014 (tăng 7,8%); sản phẩm cho tích lũy và tiêu dùng cuối cùng tăng 10,2% (năm 2014 tăng 7,4%); sản phẩm là tư liệu sản xuất tăng 11,8% (công cụ sản xuất tăng 23,4%; nguyên vật liệu xây dựng tăng 9,6%); sản phẩm tiêu dùng của dân cư tăng 9,3%.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất năm 2015 tăng cao so với năm 2014 là: Sản xuất các sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 37%; sản xuất xe có động cơ tăng 26,7%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 17,4%; dệt tăng 13,9%... Điều này làm cho một số sản phẩm công nghiêp tăng tương ứng so với năm 2014 là: Ô tô tăng 54,5%; tivi tăng 51,2%; điện thoại di động tăng 31,6%; sữa tắm, sữa rửa mặt tăng 19,8%; thép thanh, thép góc tăng 18,6%; sữa bột tăng 18,5%; giày, dép da và thép cán cùng tăng 17,8%; thức ăn cho gia súc tăng 16,5%; khí hóa lỏng (LPG) tăng 15,7%; sữa tươi tăng 15,4%.

Thái Nguyên là tỉnh có IIP tăng cao nhất cả nước trong năm 2015. Theo đó, IIP của Thái Nguyên tăng 97%. Tiếp đến là: Quảng Nam tăng 35,3%; Hải Phòng tăng 16,6%; Phú Thọ tăng 15,4%; Đà Nẵng tăng 12,9%; Bình Dương tăng 10,9%; Hải Dương tăng 10,6%; Bắc Ninh tăng 8,9%; Đồng Nai tăng 8,6%; Quảng Ngãi tăng 8,6%; Hà Nội tăng 8,2%...

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng 11/2015 tăng 1,6% so với tháng trước vàtăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng, chỉ số tiêu thụ ngành này tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2014, cao hơn mức tăng của cùng kỳ hai năm gần đây. Các ngành có chỉ số tiêu thụ 11 tháng tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 49,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 26,6%; sản xuất kim loại tăng 22,9%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 13,1%.

Trong khi đó, chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 01/12/2015 tăng 7,4% so với tháng trước và tăng 9,5% so với cùng thời điểm năm 2014 (cùng thời điểm năm 2013 tăng 10,2%; năm 2014 tăng10%). Tính bình quân 11 tháng năm 2015, tỷ lệ tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là 72,3%, trong đó một số ngành có tỷ lệ tồn kho cao: Sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu 140,4%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) 121%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất 114,3%; sản xuất, chế biến thực phẩm 97,4%.

Số lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2015 tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 6,4% so với cùng thời điểm năm trước. Trong đó lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 1,3%; doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 4,6%; doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 8%. Tại thời điểm trên, lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp khai khoáng giảm 1,4% so với cùng thời điểm năm 2014; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,3%; ngành sản xuất, phân phối điện tăng 1,1%; ngành cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 4,3%.

Tại các tỉnh, thành phố trên cả nước, lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tại thời điểm 01/12/2015 so với cùng thời điểm năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Thái Nguyên tăng 39,7%; Vĩnh Phúc tăng 16%; Phú Thọ tăng 15,4%; Quảng Nam tăng 13,5%; Bà Rịa-Vũng Tàu tăng 10,8%; Bình Dương tăng 9,9%; Đà Nẵng tăng 7%; Đồng Nai tăng 6,7%; Long An tăng 4,5%; Bắc Ninh tăng 4,4%; Hải Dương tăng 4,3%...