Chế biến tôm xuất khẩu tại Công ty Cfatex, tỉnh Hậu Giang - Ảnh: tuoitre.vn

Khi còn thuộc tỉnh Cần Thơ, ngay sau khi có Nghị quyết số 14/NQ-TW ngày 18/3/2002 của Trung ương Đảng khóa IX, về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, các địa phương trong tỉnh đã tập trung cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư, cấp phép xây dựng, đăng ký kinh doanh, giao và cho thuê đất...Gần 15 năm trở lại đây, quan điểm phát triển kinh tế tư nhân được cụ thể hóa rõ nét qua Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của tỉnh, cũng như các chương trình hành động của tỉnh giai đoạn 2006 - 2020.

Từ đổi mới tư duy kinh tế, tạo bước ngoặc quan trọng

Khái niệm kinh tế tư nhân được dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân.

Trước thời kỳ đổi mới (trước năm 1986) đường lối kinh tế của Đảng ta là xây dựng một nền kinh tế quá độ đi lên CNXH với cơ cấu kinh tế một thành phần – XHCN – gồm hai bộ phận, quốc doanh và tập thể, được quản lý‎ theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, còn các thành phần kinh tế khác được gọi là phi XHCN và nằm trong diện cải tạo và xóa bỏ. Đại hội VI của Đảng (1986), khởi xướng công cuộc đổi mới và đề ra chính sách kinh tế nhiều thành phần, lúc đó kinh tế tư nhân mặc dù vẫn tồn tại và hoạt động trong nền kinh tế quốc dân nhưng bị thành kiến và bị xa lạ trong cuộc sống.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3/1989) tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển không hạn chế địa bàn, quy mô, trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm. Cũng trong năm 1988, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đã đổi mới cơ bản cách thức quản lý‎ hợp tác xã nông nghiệp, tạo động lực cho kinh tế tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đó là bước khởi đầu thật sự quan trọng đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường cho những bước đột phá mạnh hơn sau này.

Từ đó đến nay kinh tế tư nhân đã được coi trọng và khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự do lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định. Cũng nhờ đổi mới tư duy kinh tế, Hậu Giang đã vực dậy nền kinh tế thông qua tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế tư nhân, giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất, hiệu quả, khai thác được tiềm năng, lợi thế về nông nghiệp, thủy sản, cây ăn trái của một tỉnh thuần nông, khai thác những lợi thế vùng sông nước của Trung tâm Tiểu vùng Tây sông Hậu, đưa nền nông nghiệp hậu Giang chuyển mình mạnh mẽ, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, hoạt động kinh tế năng động hơn, góp phần xóa đói, giảm nghèo, phát triển Hậu Giang với cơ cấu kinh tế: dịch vụ - công nghiệp và nông nghiệp theo chiều sâu.

Đóng góp của kinh tế tư nhân vào tăng trưởng của Tỉnh

Qua hơn 10 năm thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế phát triển theo chiều rộng sang chiều sâu, cùng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế Hậu Giang phát triển với tốc độ khá nhanh, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt khá cao 12-13%/năm theo giá so sánh 1994 và đạt 6,27%/năm theo giá so sánh 2010; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, các thành phần kinh tế phát triển khá về quy mô, tỷ trọng thành phần kinh tế có vốn nhà nước có xu hướng giảm, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng tăng lên, tỷ trọng năm 2010 tương ứng là 17% - 82,8% - 0,2%, đến năm 2016 là 14,75% - 85% - 0,25%. Đời sống người dân được nâng lên, giá trị gia tăng bình quân đầu người năm 2016 đạt 31 triệu đồng/người, gấp 1,6 lần năm 2010 và bằng 3,5 lần năm 2005.

Trong quá trình đổi mới kinh tế, tỉnh đặc biệt quan tâm cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký kinh doanh và quản lý hoạt động của kinh tế tư nhân; sửa đổi, bổ sung một số quy định theo hướng vừa tạo thuận lợi, vừa chặt chẽ trong cấp đăng ký kinh doanh, theo yêu cầu "một cửa, một dấu"; rà soát lại, bãi bỏ những giấy phép, chứng chỉ hành nghề không cần thiết, gây khó khăn cho đăng ký kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp, đồng thời quản lý chặt chẽ và có chế tài xử lý nghiêm minh những vi phạm của các đơn vị kinh tế tư nhân trong đăng ký kinh doanh và hoạt động, cũng như những vi phạm của cơ quan, cán bộ nhà nước trong thi hành công vụ.

Sự phát triển vượt bậc của kinh tế tư nhân được thể hiện trên các số liệu chủ yếu sau: Từ năm 2005 đến năm 2016 đã có 4.500 doanh nghiệp đăng k‎ý kinh doanh với số vốn đăng ký‎ trên 47.000 tỷ đồng, gấp 5,7 lần về số doanh nghiệp và gấp hơn 12 lần về vốn đăng ký‎ so với năm 2005; riêng năm 2016 sau khi có Nghị quyết số 19 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh qụôc gia; Nghị quyết số 35 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới đã tăng 40% so với năm trước, có gần 760 doanh nghiệp khởi nghiệp, tổng vốn đăng ký 1.800 tỷ đồng.

Vốn đầu tư năm 2005 của khu vực dân doanh chiếm 67% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (vốn đầu tư nhà nước chiếm 33%), đến năm 2016 vốn đầu tư khu vực dân doanh đã lên đến 77% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Số việc làm khu vực kinh tế tư nhân giải quyết khoảng 406.000 người, chiếm 95% lực lượng lao động xã hội. Đóng góp của kinh tế tư nhân vào GRDP của Tỉnh cũng vượt trội.

Trong khi tỷ lệ đóng góp của kinh tế nhà nước giảm từ 19,9% năm 2005 xuống còn 12,4% năm 2016, thì kinh tế tư nhân (tính cả kinh tế cá thể) tăng tương ứng từ 82,9% lên 83,5%. Về đầu tư trong nước, đến nay cả tỉnh có 484 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn là 121.627 tỷ đồng và thu hút được 27 dự án đầu tư nước ngoài, tổng vốn đầu tư 808 triệu USD. Ngoài những con số đã nêu, kinh tế tư nhân còn có những đóng góp quan trọng như: góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của toàn xã hội nhờ hàng hóa và dịch vụ ngày càng tăng cả về lượng và chất lượng, nhất là công nghiệp chế biến; mở rộng thị trường trong nước ra thị trường thế giới, góp phần xóa đói, giảm nghèo; hình thành đội ngũ doanh nhân giỏi, có chí, có tâm huyết và năng lực kinh doanh.

Những chính sách cụ thể tỉnh đã vận dụng phát triển kinh tế tư nhân, đem lại nhiều kết quả tích cực. Phải kể đến đó là chính sách giảm nghèo, chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, chính sách đất đai, chính sách thu hút đầu tư, chính sách ưu đãi về vốn tín dụng, chính sách phát triển nông – lâm - thuỷ sản, chính sách phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, chính sách phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch, chính sách phát triển kết cấu hạ tầng, chính sách khoa học - y tế - công nghệ - môi trường. Bên cạnh đó vai trò quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân cũng được chú trọng, tỉnh đã trợ giúp đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp hàng năm; giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, chế độ, chính sách nhà nước của doanh nghiệp, nắm chắc tình hình đăng ký kinh doanh. Để góp phần phòng chống rũi ro pháp lý và tăng cường năng lực cạnh tranh, UBND tỉnh đã chỉ đạo tăng cường hoạt động của Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (Trực thuộc Sở Tư pháp) và thường kỳ tổ chức đối thoại với doanh nghiệp, họp mặt nhà doanh nghiệp, tổ chức thăm và tháo gở khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư và tại một số doanh nghiệp có quy mô lớn. UBND tỉnh đã tổ chức hội nghị đánh giá năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và đề ra giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh thời gian tới.

Kinh tế tư nhân trong Tỉnh còn những tồn tại, bất cập gì?

Năm 2015, chỉ số năng lực cạnh tranh PCI của tỉnh xếp vị trí thứ 36/63 tỉnh, thành phố trên cả nước, nhưng vẫn còn nằm trong nhóm hạng khá, đứng vị trí 9/13 của khu vực đồng bằng sông Cửu Long, trong đó đứng đầu cả nước về chỉ số “Gia nhập thị trường”. Hậu Giang đã có 4 chỉ số tăng điểm là Chi phí gia nhập thị trường; tiếp cận đất đai và sự ổn định trong sử dụng đất; chi phí không chính thức và chỉ số tính năng động của lãnh đạo tỉnh.

Nhìn chung Hậu Giang đã có nhiều cố gắng cải thiện môi trường đầu tư nhưng vẫn còn không ít lĩnh vực chưa đạt được mong muốn và còn 6 chỉ số hạn chế, giảm điểm là: Tính minh bạch và tiếp cận thông tin; chi phí về thời gian để thực hiện các quy định của nhà nước; đào tạo lao động; dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp; cạnh tranh bình đẳng và chỉ số thiết chế pháp lý.

Nhìn tổng thể, so với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long, quy mô kinh tế của Hậu Giang vẫn còn nhỏ, thu nhập bình quân đầu người mới đạt 80% so với vùng. Trình độ phát triển của kinh tế tư nhân còn thấp, phần lớn các doanh nghiệp tư nhân trong tỉnh có quy mô nhỏ, manh mún, mang nặng tính gia đình, còn ít liên kết với nhau hoặc liên kết với kinh tế tập thể.

Đa số doanh nghiệp đầu tư vào thương mại, dịch vụ, với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trước mắt; hoạt động với mục tiêu hướng nội trong phạm vi hẹp. Trình độ công nghệ và tay nghề của công nhân chưa cao, máy móc, thiết bị lạc hậu, năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, kinh doanh thấp, chưa tạo được nhiều sản phẩm có uy tín, có thương hiệu trên thị trường trong và ngoài nước; ý thức bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng chưa cao. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân chưa có khả năng, điều kiện để tham gia đấu thầu quốc tế.

Quản trị nội bộ của nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn còn yếu, chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của bản thân, thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh; cán bộ quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ phần lớn chưa qua đào tạo; quản lý tài chính còn thiếu minh bạch, số liệu báo cáo chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính của doanh nghiệp.

Không ít doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể trong khu vực kinh tế tư nhân còn vi phạm các quy định pháp luật, phổ biến ở các hình thức như: không có địa chỉ thực, không treo biển hiệu; thành lập doanh nghiệp để mua bán hóa đơn tài chính; buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái; vi phạm các quy định về thuế; thực hiện pháp luật về lao động còn nhiều sai phạm. Ô nhiễm môi trường ở một số làng nghề, cơ sở sản xuất vẫn là vấn đề bức xúc hiện nay.

Thiếu vốn sản xuất, kinh doanh, hầu hết các doanh nghiệp chủ yếu sử dụng nguồn vốn của gia đình, bạn bè để đầu tư sản xuất, kinh doanh. Rất khó đáp ứng đủ các điều kiện để vay vốn, nhất là vay vốn ưu đãi, vốn trung, dài hạn tại ngân hàng thương mại.

Công tác quản lý nhà nước chưa toàn diện, có nơi còn buông lỏng, không thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân. Chủ trương hậu kiểm chưa được triển khai triệt để; chưa kịp thời kiểm tra, phát hiện, xử lý các sai phạm trong việc chấp hành quy định của pháp luật, nhất là việc thực hiện Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Bảo hiểm xã hội... Sự phối hợp giữa cơ quan đăng ký kinh doanh, cơ quan thuế, quản lý thị trường có nơi chưa chặt chẽ nên việc kiểm tra sau đăng ký kinh doanh còn ít tác dụng. Thanh tra, kiểm tra còn mang nặng tính phát hiện vi phạm hơn là hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao khả năng nhận thức và tuân thủ pháp luật. Nhiều doanh nghiệp vẫn phàn nàn về tình trạng thiếu thông tin, về công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách mới.

Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém là sự quan tâm và mức độ đầu tư của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân nhìn chung còn thấp. Các doanh nghiệp của tư nhân hầu hết mới được hình thành và phát triển nhanh trong những năm gần đây nên tài sản, vốn liếng còn ít, khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước hạn chế.

Trong thời gian qua, kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động, khủng khoảng tài chính tiền tệ thế giới và những khó khăn của kinh tế vĩ mô trong nước đã tác động đến sự phát triển của kinh tế tư nhân.

Hội nhập quốc tế với nhiều thách thức, cùng với môi trường cạnh tranh gay gắt đã có những tác động bất lợi đến phát triển kinh tế tư nhân, đó là tác động khách quan, còn về chủ quan phải kể đến là do kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là hạ tầng giao thông, thiếu nguồn lực đầu tư. Nguồn nhân lực tuy nhiều nhưng yếu về chất lượng, đặc biệt là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn cao.

Một số cơ chế chính sách ưu đãi của Tỉnh để thu hút các nguồn lực chưa đủ sức tạo ra động lực mới; nhất là những chính sách khuyến công, khuyến nông chưa tác động mạnh để nâng cao chất lượng doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích đầu tư trong nước, thu hút vốn nước ngoài; việc đầu tư phát triển khoa học - công nghệ, thu hút nhân tài, xã hội hóa đầu tư các lĩnh vực văn hóa - xã hội... còn yếu.

Triển vọng của kinh tế tư nhân trong Tỉnh thời gian tới

Các loại hình doanh nghiệp sẽ ngày càng phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, cả về quy mô lẫn hiệu quả kinh tế. Kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nông thôn và thành thị tiếp tục phát triển, có vị trí quan trọng lâu dài, ngày càng lớn mạnh và làm “vệ tinh” cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn.

Ngoài ra, sẽ có sự phát triển mở rộng và nhanh chóng của các hình thức tổ chức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữa các thành phần kinh tế với nhau, giữa trong nước và ngoài nước; sẽ có sự xuất hiện và nhân rộng nhiều mô hình mới về sự hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp và kinh tế hộ cá thể. Trong nông nghiệp các loại hình trang trại với quy mô lớn, kinh doanh tổng hợp, kết hợp công - nông - lâm nghiệp và sinh thái, sẽ ngày càng phát triển.

Cùng với sự lớn mạnh và thành công của nhiều doanh nghiệp và tập đoàn doanh nghiệp, khu vực kinh tế tư nhân sẽ ngày càng phát triển mạnh, trở thành động lực của nền kinh tế, góp phần bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững.

Để khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân trong Tỉnh giai đoạn tới, góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng tăng trưởng, đưa Hậu Giang đến năm 2020 trở thành Tỉnh khá trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp:

Một là, tiếp tục tuyên truyền, quán triệt rộng rãi trong nhân dân, tạo sự đồng thuận cao hơn nữa trong xã hội; khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế, nhất là tạo việc làm và an sinh xã hội; đồng thời chủ động khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong phát triển kinh tế tư nhân, nhất là ý thức chấp hành pháp luật.

Hai là, tiếp tục điều chỉnh, để đổi mới hơn nữa cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, cụ thể là:

- Đẩy mạnh thực hiện Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, hướng dẫn việc xử lý các trường hợp doanh nghiệp vi phạm các hành vi bị cấm.

- Tập trung rà soát, sửa đổi, bổ sung một số cơ chế, chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân và doanh nghiệp; rà soát, thu hồi những diện tích đất sử dụng sai mục đích theo quy định của Luật Đất đai.

- Về chính sách tài chính, tín dụng, có cơ chế để doanh nghiệp tư nhân được vay vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) như các doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục rà soát, bãi bỏ các khoản phí, lệ phí không hợp lý; giải quyết nhanh việc hoàn thuế giá trị gia tăng cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân nắm giữ phần vốn hợp lý tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa.

- Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật về lao động, kịp thời xử lý những vi phạm, củng cố quan hệ lao động lành mạnh, từng bước tạo môi trường sản xuất, kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp.

- Về chính sách hỗ trợ đào tạo, khoa học và công nghệ, cần có Chương trình hỗ trợ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp; thiết lập thị trường công nghệ, giúp các doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ mới.

- Tiếp tục hỗ trợ công tác theo dõi, phân tích và cung cấp thông tin miễn phí, hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại để tìm kiếm thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu cho kinh tế tư nhân.

Ba là, thực hiện đúng chính sách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; khuyến khích và mở rộng các hình thức hợp tác, liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tạo mối quan hệ hợp tác, cạnh tranh, cùng có lợi.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với kinh tế tư nhân. Tiếp tục cải cách hành chính, nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy quản lý nhà nước thông qua việc tiêu chuẩn hóa cán bộ và quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát theo cơ chế hậu kiểm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của kinh tế tư nhân./.