Theo Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sau hơn 4 năm thực hiện Đề án tái cơ cấu nông nghiệp, với nhiều nỗ lực và sáng kiến mới, ngành lâm nghiệp đã đạt được những thành tựu quan trọng. Độ che phủ rừng tăng từ 39,7% năm 2011 lên 40,84% năm 2015; giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp tiếp tục tăng trưởng mạnh, đạt bình quân 6,57%/năm so với 5,03%/năm giai đoạn 2010-2012, vượt mục tiêu 5,5-6,0%/năm đề án đề ra. Giá trị xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản tăng trưởng mạnh, gấp hơn 2 lần trong vòng 5 năm, từ 3,035 tỷ USD/năm giai đoạn 2010-2012 lên 6,52 tỷ USD/năm, giai đoạn từ 2011 đến nay.

Năm 2016, trong bối cảnh thị trường quốc tế diễn biến phức tạp, giá trị xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản chủ lực của nước ta bị suy giảm, nhưng kim ngạch xuất khẩu xuất khẩu đồ gỗ và lâm sản vẫn tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, đạt 7,178 tỷ USD.

Công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng tiếp tục có nhiều tiến bộ, tình trạng vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng giảm dần cả về số vụ vi phạm và mức độ thiệt hại. Công tác phát triển rừng tiếp tục được các địa phương tích cực triển khai. Công tác trồng rừng thay thế diện tích rừng khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác; trồng rừng ven biển ứng phó với biến đổi khí hậu đã được quan tâm, đẩy mạnh góp phần từng bước ổn định diện tích rừng;

Sản lượng gỗ rừng trồng 5 năm qua tăng hơn 3,3 lần, từ 5,16 triệu m3 năm 2011 lên 17,3 triệu m3 năm 2016, cung cấp nguồn nguyên liệu quan trọng, đáp ứng nhu cầu chế biến gỗ trong nước và xuất khẩu, trong bối cảnh đóng cửa rừng tự nhiên.

Toàn cảnh Hội nghị

Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản phát triển mạnh với nhiều thành phần kinh tế, hiện có khoảng 3.500 doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp FDI; sản phẩm chế biến ngày càng đa dạng về chủng loại, mẫu mã, đáp ứng yêu cầu mở rộng, thâm nhập vào các thị trường nước ngoài.

Dịch vụ môi trường rừng thực sự trở thành nguồn tài chính quan trọng, bền vững của ngành lâm nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ và phát triển rừng, tăng thu nhập cho người dân làm nghề rừng, đồng thời giải quyết khó khăn về kinh phí hoạt động của chủ rừng, tạo nguồn tài chính bền vững, giảm áp lực chi ngân sách Nhà nước.

Cơ chế chính sách từng bước được bổ sung, sửa đổi, thu hút các thành phần kinh tế tham gia bảo vệ và phát triển rừng, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người làm nghề rừng.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ, phát triển rừng thời gian qua cũng còn nhiều tồn tại cần sớm được khắc phục. Vẫn còn những điểm nóng về phá rừng, vận chuyển, tàng trữ lâm sản trái phép và chống người thi hành công vụ (điển hình như ở Kon Tum, Đắk Lắk, Quảng Nam, Mường Nhé- Điện Biên).

Ngoài ra, kết quả trồng rừng phòng hộ, đặc dụng, trồng rừng thay thế còn thấp, chưa đạt chỉ tiêu kế hoạch. Năng suất chất lượng rừng thấp, quy mô sản xuất nhỏ, manh mún, chưa được tổ chức trong liên kết theo chuỗi. Kết cấu hạ tầng phục vụ chế biến như kho tàng, bến bãi, công nghiệp phụ trợ… còn kém phát triển. Thị trường nội địa phát triển chậm, thiếu gắn kết giữa nhà máy chế biến và vùng nguyên liệu. Thu nhập và đời sống của người dân làm nghề rừng còn thấp, đa phần người dân chưa sống được bằng nghề rừng. Công tác đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất còn chậm trong khi kinh tế hộ nhỏ lẻ, bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém; lâm trường quốc doanh/công ty lâm nghiệp Nhà nước đổi mới chậm.

Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng chỉ rõ, bảo vệ rừng và bảo tồn thiên nhiên là nhiệm vụ quan trọng nhất của Chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững. Cùng với đó, phát triển và nâng cao năng suất, chất lượng rừng; nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của các sản phẩm lâm nghiệp.

Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, nhiệm vụ cụ thể trước mắt là khẩn trương rà soát, nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, đặc biệt là ban hành, thực thi các sáng kiến tài chính mới để tạo thêm nguồn lực cho phát triển ngành lâm nghiệp, cụ thể như: chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với các cơ sở công nghiệp, du lịch sinh thái và nuôi trồng thuỷ sản, bồi hoàn giá trị hệ sinh thái rừng.

Nhiệm vụ trọng tâm thứ hai là phải nâng cao chất lượng công tác lập và quản lý thực hiện quy hoạch rừng và đất lâm nghiệp. Các bộ, ngành, địa phương sớm hoàn thiện việc rà soát, đánh giá quy hoạch tổng thể rừng cấp quốc gia và cấp vùng, xác định rõ lâm phận ổn định. Gắn quy hoạch phát triển rừng với tái cấu trúc ngành lâm nghiệp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của ngành lâm nghiệp. Cả nước, mỗi địa phương phải xác định các sản phẩm lâm nghiệp chủ lực để tập trung bảo vệ, phát triển, đầu tư một cách bền vững.

Bảo đảm bố trí đủ ngân sách nhà nước, tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế-xã hội đầu tư, xây dựng, bảo vệ rừng thông qua việc giao, cho thuê rừng cho tổ chức, cộng đồng dân cư thôn, hộ gia đình, cá nhân.

Đồng thời, việc tổ chức sản xuất lâm nghiệp phải được thực hiện theo chuỗi sản phẩm từ trồng rừng, thu mua nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Các cơ quan quản lý Nhà nước phải có cơ chế khuyến khích việc hình thành các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn ở từng vùng kinh tế.

Theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng như hiện nay, cơ quan quản lý nhà nước cần triển khai hiệu quả, chặt chẽ việc cấp chứng chỉ rừng theo tiêu chuẩn của Việt Nam phù hợp với quy định, thông lệ của quốc tế. Cùng với đó, chuẩn bị các điều kiện, hoàn thành việc đàm phán, ký kết các hiệp định chung với EU và các hiệp định song phương với các nước có tiềm năng để mở cửa thị trường cho thương mại, xuất nhập khẩu lâm sản.

“Đặc biệt coi trọng thị trường nội địa, nhưng phải luôn lấy thị trường khu vực và quốc tế làm mục tiêu để nâng cao sức cạnh tranh, phát triển các sản phẩm ngành lâm nghiệp”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh./.