Tại các nước đế quốc, chính phủ thường bỏ lại những quá khứ mà họ đã trải qua, nhưng ở Việt Nam chúng ta trân trọng những giá trị vật chất và tinh thần có từ thời các vị vua chúa, những điều mà đất nước chúng ta đã trải qua và để lại như các thành cổ và quảng bá rộng rãi như là một điểm đến du lịch.

Từ năm 1993, tám địa danh ở Việt Nam, bao gồm ba tòa thành, trong đó có thành Nhà Hồ đã được liệt kê vào danh sách di sản thế giới được UNESCO công nhận cùng với bảy địa danh khác và đang chờ phân loại chính thức.

Nhiều nơi trong số các địa điểm này là địa danh tự nhiên hay có ý nghĩa lịch sử lớn, chẳng hạn như Vịnh Hạ Long và khu phức hợp các di tích ở Huế.

Nhưng các thành cổ thì tới gần đây nhất (năm 2011) mới chính thức có được con dấu công nhận của UNESCO, khi đó Thành Nhà Hồ, Thanh Hóa, nằm cách Hà Nội 150km về phía nam, hầu như chưa được biết đến cho tới khi được công nhận.

Sự lựa chọn Thành Nhà Hồ là một vinh dự. Nhưng đây được xem là một di tích kỳ lạ nhất mà UNESCO công nhận, với hai lý do.

Trước hết, đây là di tích còn lại của triều đại nhà Hồ, triều đại chỉ kéo dài trong bảy năm (1400-1407), triều đại ngắn nhất trong lịch sử sóng gió của Việt Nam.

Thứ hai, đây là một tòa thành trống. Không có cung điện, không có đền thờ, không có di tích - chỉ có bốn bức tường đá và xung quanh không có gì ngoài ruộng đồng.

Tuy nhiên, theo UNESCO, thành cổ đại diện cho "một ví dụ nổi bật về một phong cách mới của thành phố hoàng gia ở Đông Nam Á."

“Bị hấp dẫn bởi ý niệm về việc khám phá một thành phố thời trung cổ ở vùng nông thôn Việt Nam, tôi quyết định để khám phá những tòa thành trống rỗng”- chia sẻ của Ron Emmons ( một nhà văn Anh / nhiếp ảnh gia, người đi xuyên suốt Đông Nam Á từ căn cứ ở Chiang Mai, Thái Lan. Ông viết cho các nhà xuất bản bao gồm National Geographic và Rough Guides)

Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á và là một trong rất ít còn lại trên thế giới.

Những gì còn lại của tòa thành


Một bờ tường của toàn thành,
Ảnh: Ron Emmons

Thành Nhà Hồ được xây dựng trong ba tháng, là một thành tích ấn tượng của kỹ thuật thế kỷ 15, xây dựng không cần dùng vữa để cố định giữa các khe hở của các khối đá.

Những bức tường thành đã 600 năm tuổi, kéo dài gần một cây số trên mỗi bên và điều đáng kể là vẫn còn nguyên vẹn và bốn cổng vòm vẫn đứng vững, mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Chắc chắn, cũng có những phần của bức tường đã chịu sự tác động của thiên nhiên, môi trường mà không còn nguyên vẹn hoặc là nơi cỏ, cây bụi mọc phủ đầy. Nhưng chính điều đó đã làm tăng thêm sự thần bí của địa danh này.

Bao trùm các bức tường là một hình ảnh vượt thời gian, những cánh đồng ngô và ruộng lúa trải dài, những ao hồ, đường đất … tất cả tạo nên một hình ảnh của sự bình dị và trù phú.

Lịch sử ngắn về Thành Nhà Hồ

Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà Trần - cho xây dựng vào năm 1397, ban đầu gọi là Tây Đô. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước là Đại Ngu (1400-1407), ông trở thành vị hoàng đế đầu tiên của nhà Hồ, thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô của đất nước. Thành Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.

Sau khi cầm quyền khoảng một năm, Hồ Quý Ly nhường ngôi cho con trai thứ hai của ông là Hồ Hán Thương, người trị vì được sáu năm và chấm dứt khi vị vua này bị quân Minh bắt vào năm 1407.

Mặc dù trị vì đất nước trong thời gian ngắn ngủi nhưng Hồ Quý Ly đã làm được rất nhiều việc quan trọng cho đất nước như: phát hành tiền giấy, cải cách về hành chính, kinh tế, xã hội như: làm sổ hộ tịch, định lại quan chế và hình luật, thuế và tô ruộng, di dân khẩn hoang, lập cơ quan chăm sóc y tế.v.v., mở cửa giao thương với nước ngoài và mở rộng các chương trình giáo dục bao gồm các môn học như toán học và nông nghiệp.

Đi dọc theo con đường đất thông qua thành trống về phía cổng phía nam, lối vào chính của tòa thành, đi xuyên qua ba vòm cổng còn lại ở các bức tường phía bắc, phía đông và phía tây.

Nông nghiệp và du lịch


Ảnh: Ron Emmons

Phát triển du lịch đồng nghĩa là dừng lại các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi tại nơi đây sẽ làm ảnh hưởng đến đời sống nhân dân địa phương.

Đứng từ trên đầu cổng thành ở cửa ngõ phía nam, một khung cảnh bình dị thân quen hiện lên khi các em nhỏ đạp xe từ trường về nhà qua những cánh đồng lúa xanh ngát và cổng thành cổ sừng sững lẫm liệt bao đời.

Tuy nhiên trong một phần của thỏa thuận với UNESCO, Việt Nam cam kết bảo vệ di sản của tòa thành, có nghĩa là ngăn chặn bất kỳ hoạt động xây dựng đổi mới cảnh quan và chấm dứt sản xuất nông nghiệp như trồng lúa bên trong tòa thành này.

Ông Nguyễn Xuân Toàn, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ, phát biểu với Việt Nam News: "Do các hộ có quyền sử dụng đất, họ tiếp tục xây dựng nhà ở và các công trình khác ngay tại mảnh đất này nên gây khó khăn trong việc bảo vệ thành trì."

Ông cũng giải thích rằng việc cày, bừa, đào mương thủy lợi trong thành đã tiếp xúc với các di tích khảo cổ học và có một tác động tiêu cực đến các kiến trúc dưới lòng đất tại khu vực này.

Chính vì vậy, người dân địa phương sẽ phải hy sinh quyền lợi và cả đất đai của họ nếu chính phủ xác định sẽ phát triển thành như một điểm đến thu hút khách du lịch. Có lẽ các nhà lãnh đạo sẽ phải cân nhắc rất kỹ trước quyết định phát triển điểm tham quan du lịch này./.