Phát biểu khai mạc, Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Đào Việt Trung cho biết, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIV đã thông qua 07 Luật. Căn cứ Hiến pháp năm 2013 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Chủ tịch nước đã ký 07 Lệnh về việc công bố Luật gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ; Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14; Luật Đầu tư công năm 2019; Luật Kiến trúc; Luật Giáo dục năm 2019; Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia số 44/2019/QH14; Luật Thi hành án hình sự năm 2019.

Chủ nhiệm Văn phòng Chủ tịch nước Đào Việt Trung phát biểu khai mạc

Liên quan đến việc công bố Luật Đầu tư công, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Đức Trung cho biết, Luật đầu tư công năm 2019 được thông qua sẽ đảm bảo một số nội dung như: thống nhất nguồn vốn đầu tư công, tháo gỡ những vướng mắc khó khăn trong quá trình thực hiện đầu tư công, cũng như đẩy mạnh phân cấp cho các bộ ngành địa phương trong quá trình thực hiện đầu tư công; tăng cường tính công khai minh bạch trong hoạt động đầu tư công; đồng thời Luật Đầu tư công phải gắn với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và cơ cấu lại đầu tư công theo hướng sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước.

Thứ trưởng Nguyễn Đức Trung trình bày một số điểm cơ bản của Luật Đâu tư công năm 2019

Thứ trưởng Nguyễn Đức Trung cho biết, Luật Đầu tư công năm 2019 gồm 6 chương và 101 điều. Trong Luật Đầu tư công năm 2019 có một số điểm mới, cụ thể như sau:

Thứ nhất là, thống nhất về nguồn vốn đầu tư công (nguồn vốn ngân sách nhà nước và nguồn thu hợp pháp của các cơ quan tổ chức dành cho đầu tư). Luật Đầu tư công hiện nay bao gồm vốn ngân sách nhà nước và vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư theo quy định của pháp luật.

Đây là điểm mới cơ bản so với Luật Đầu tư công trước đây, bởi Luật Đầu tư công trước đây quy định, nguồn vốn đầu tư công trước đây ngoài nguồn vốn ngân sách nhà nước còn có , trái phiếu chính phủ, công trái quốc gia, tín dụng đầu tư...

“Việc thống nhất này có ý nghĩa rất quan trọng, dẫn đến đơn giản hóa quy trình, trình tự, thủ tục về đầu tư công”, Thứ trưởng Nguyễn Đức Trung nói.

Bên cạnh đó, Thứ trưởng Trung cũng cho rằng, việc thống nhất nguồn vốn đầu tư công sẽ giúp xây dựng được quy trình riêng cho các dự án sử dụng vốn từ nguồn thu hợp pháp của các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập dành để đầu tư theo quy định của pháp luật theo hướng tăng cường phân cấp, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị, cơ quan có nguồn vốn này nhưng vẫn đảm bảo được công tác theo dõi, giám sát và tổng hợp báo cáo.

Thứ hai, đẩy mạnh phân cấp trong việc xem xét quyết định các phê duyệt chủ trương đầu tư, đặc biệt là phân cấp thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn.

Luật Đầu tư công sửa đổi đã tập trung sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện trình tự, thủ tục, phân cấp thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án đầu tư công. Trong đó, đáng chú ý nhất là phân cấp triệt để quy trình thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn, đưa vấn đề này trở thành một nội dung của thẩm định báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, và do các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thẩm định (trừ chương trình, dự án thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ) trên cơ sở tổng số vốn kế hoạch trung hạn của đơn vị mình được cấp có thẩm quyền phân bổ.

Bên cạnh đó, Luật Đầu tư công sửa đổi cũng đã xác định rõ một số nhiệm vụ và loại dự án không phải quyết định chủ trương đầu tư (Khoản 6 Điều 18), nhằm gỡ bỏ thủ tục mang tính hình thức, trùng lặp, tiết kiệm thời gian, chi phí cho công tác chuẩn bị dự án.

Ba là, đẩy mạnh phân cấp cho các đia phương trong việc quyết định các dự án đầu tư công, trong đó cả các dự án nhóm A

“Với sửa đổi này, HĐND cấp tỉnh có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm A của địa phương sử dụng bất kỳ loại nguồn vốn nào (bao gồm cả hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương). Những dự án này, trước đây là địa phương phải trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư dự án nhóm A”, Thứ trưởng Nguyễn Đức Trung cho biết.

Bốn là, đổi mới mạnh mẽ phương thức kế hoạch hóa, nhằm đáp ứng tốt hơn đối với thực tiễn vận hành của nền kinh tế, khắc phục được vướng mắc lớn nhất về đầu tư công trước đây, đó là vấn đề “có vốn trước hay có dự án trước”.

Theo Luật Đầu tư công trước đây, muốn quyết định chủ trương đầu tư của một dự án, cần phải xác định được nguồn vốn và khả năng cân đối vốn. Tuy nhiên, muốn xác định được nguồn vốn và khả năng cân đối vốn phải căn cứ vào dự án. Như vậy là đã tạo một vòng lặp luẩn quẩn và không có giải pháp “lối ra” để xử lý”

“Luật Đầu tư công sửa đổi đã đưa ra phương án là phải có dự kiến kế hoạch nguồn vốn và khả năng cân đối vốn trước (tạm gọi là số kiểm tra), để từ đó, có căn cứ pháp lý về nguồn vốn để các bộ, cơ quan, địa phương triển khai các thủ tục phê duyệt chủ trương đầu tư dự án”, Thứ trưởng Nguyễn Đức Trung nói.

Đồng thời, đơn giản hóa mạnh mẽ quy trình giao kế hoạch vốn đầu tư công hằng năm, theo đó, phân cấp thẩm quyền quyết định cho người đứng đầu các bộ, cơ quan trung ương, địa phương trong việc điều chỉnh kế hoạch giữa các dự án trong danh mục kế hoạch nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công và nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công trong kế hoạch hằng năm.

Năm là, tăng cường hơn tính cao tính công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư công, Luật bổ sung quy định về Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia về đầu tư công. Theo đó, tăng cường theo dõi, giám sát, thanh tra, kiểm tra các hoạt động đầu tư công, sử dụng nguồn vốn đầu tư công thông qua đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đầu tư công, gắn với quá trình xây dựng Chính phủ điện tử và tiến tới Chính phủ số, góp phần tích cực vào việc chống thất thoát, lãng phí.

Cuối cùng, Thứ trưởng Nguyễn Đức Trung kỳ vọng rằng, với những đổi mới trong Luật Đầu tư công năm 2019, quá trình thực hiện đầu tư công sẽ tạo thuận lợi hơn cho quá trình chuẩn bị dự án, do việc đơn giản hóa thủ tục, phân cấp mạnh mẽ. Thực hiện Luật Đầu tư công sửa đổi cũng sẽ góp phần cải thiện tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công, vốn chậm trễ bao lâu nay. Các quy định mới tuy vẫn chặt chẽ để đảm bảo sử dụng hiệu quả từng đồng vốn đầu tư công quý giá, nhưng cũng vừa tạo thuận lợi trong điều chỉnh kế hoạch để tăng tỷ lệ giải ngân, hạn chế kéo dài thời gian thực hiện, chuyển nguồn…