Từ thắng lợi của cuộc cách mạng Việt Nam...

Cách đây 90 năm, ngày 3/2/1930, dưới sự chủ trì của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã tiến hành hội nghị hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là sự tất yếu của lịch sử, là kết quả phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam kết hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin, là kết quả quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt to lớn trong lịch sử cách mạng nước ta, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc.

Vừa mới ra đời, Đảng ta đã nắm ngay quyền lãnh đạo độc tôn và hòa vào cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ, từng bước tạo thế, lực, thời cơ và chớp thời cơ “ngàn năm có một”, lãnh đạo cả dân tộc vùng dậy, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.

Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.

9 năm sau đó, dân tộc Việt Nam có quyền tự hào với bè bạn năm châu vì đây là lần đầu tiên một dân tộc thuộc địa đã đánh thắng đội quân nhà nghề Pháp hùng mạnh, làm nên mốc son Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Pháp phải ký vào Hiệp định Giơnevơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương, đồng thời cổ vũ nhân dân các nước thuộc địa vùng lên “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Dân tộc ta không chỉ tự hào về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, mà chính Đảng và Bác Hồ đã tiếp thêm sức mạnh, nguồn sống, niềm tin để cả dân tộc Việt Nam tiếp tục bước vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước hơn hai thập niên sau đó. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Tại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

“… Đảng ta vĩ đại như biển rộng, như núi cao,
Ba mươi năm phấn đấu và thắng lợi biết bao nhiêu tình.
Đảng ta là đạo đức, là văn minh,
Là thống nhất, độc lập, là hòa bình ấm no.
Công ơn Đảng thật là to
Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả một pho lịch sử bằng vàng”.
… đến minh chứng sinh động về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng

Trong nghèo nàn và lạc hậu, giữa bộn bề gian khó do hậu quả nặng nề của chiến tranh để lại, sự bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, Đảng ta luôn giữ vững, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khởi xướng và lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước, đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Chưa bao giờ đất nước ta có cơ đồ tốt đẹp như ngày nay, đời sống của nhân dân ở mọi miền Tổ quốc, dù là vùng sâu, vùng xa hay nơi khó khăn nhất cũng không ngừng được cải thiện; bộ mặt đô thị ngày càng văn minh, các vùng nông thôn ngày càng đổi mới; uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định vững chắc.

Nếu như trong giai đoạn đầu Đổi mới (1986-1990) mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đã tăng gấp đôi, đạt 8,2%/năm; giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997 - 1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm; giai đoạn 2001 - 2005, GDP tăng bình quân 7,34%; giai đoạn 2006 - 2010, GDP đạt 7%/năm.

Trong các năm tiếp theo, do chịu tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và khủng hoảng nợ công 2010, tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2011 - 2015 của Việt Nam đã chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và thế giới.

Giai đoạn 2016-2018, tăng trưởng GDP liên tục gia tăng và lần lượt đạt các mốc cao nhất trong 10 năm qua (với GDP năm 2017 tăng 6,71% - mức cao nhất kể năm 2008, và năm 2018 tăng trưởng tiếp tục đạt mức cao hơn, khoảng 7,0%).

Đến năm 2019, quy mô nền kinh tế đạt hơn 262 tỷ USD

Đến năm 2019, thu nhập bình quân đầu người đã lên gần 2.800 USD vào năm 2019. Đặc biệt, tăng trưởng GDP toàn quốc đạt 7,02%, quy mô nền kinh tế đạt hơn 262 tỷ USD. Mức tăng trưởng này cũng vượt xa dự báo của các tổ chức quốc tế, như ADB tính toán 6,9%, World Bank 6,8%...

Kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Hiện Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại song phương với hơn 100 nước. Công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm từ 53% năm 1993 xuống còn dưới 4% năm 2019... Theo UNDP, Việt Nam đã tạo ra một câu chuyện huyền thoại trong công cuộc giảm nghèo.

Cũng theo tổ chức này, Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số HDI cao nhất trên thế giới và với chỉ số HDI năm 2019 là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước. Việt Nam cũng đang ở gần mức trần của nhóm các nước có HDI ở mức trung bình và chỉ cần thêm 0,007 điểm để vào được nhóm các nước có HDI ở mức cao.

Một tín hiệu rất tích cực của nền kinh tế năm 2019 là sự phát triển của các doanh nghiệp. Trong danh sách 200 công ty có doanh thu trên 1 tỷ USD tốt nhất tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương do Forbes Asia 2019 công bố danh sách, có 7 doanh nghiệp của Việt Nam. Cũng trong danh sách tỷ phú USD thế giới được Forbes vinh danh, đã có 5 tỷ phú USD đến từ Việt Nam. Cùng với đó, có những doanh nghiệp Việt Nam đã hướng tới đột phá trong sản xuất công nghiệp và công nghệ với những dự án đầy tham vọng với hy vọng vươn ra thị trường quốc tế.

Có thể nói, những thành tựu mà dân tộc Việt Nam đạt được nói trên dưới sự lãnh đạo của Đảng thật lớn lao, đưa dân tộc Việt Nam vững vàng bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong quá trình lãnh đạo, chèo lái con thuyền cách mạng 90 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, bên cạnh thành tựu, Đảng ta cũng không tránh khỏi những khuyết điểm, song Đảng ta đã nhìn nhận, lắng nghe ý kiến phản hồi từ nhân dân, từ đó đề ra những biện pháp sửa chữa đúng đắn, kịp thời và công khai phê bình, nhận khuyết điểm trước nhân dân, quyết tâm sửa chữa và sửa chữa có kết quả. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là minh chứng về quá trình từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch “là đạo đức, là văn minh” như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định.

Vì vậy, suốt 90 năm qua, Đảng ta vẫn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, được nhân dân tin cậy, thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của cả dân tộc.

Tiếp tục vững vàng lãnh đạo đất nước thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua đã chứng minh rằng, sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta. Ở Việt Nam không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách cam go để đưa dân tộc đến bến bờ vinh quang.

Và cũng chính trong quá trình đó, Đảng ta đã tích luỹ và đúc rút được nhiều bài học quý báu, hun đúc nên những truyền thống vẻ vang mà hôm nay chúng ta có trách nhiệm phải ra sức giữ gìn và phát huy.

Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng.

Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu.

Là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí.

Là truyền thống đoàn kết quốc tế thuỷ chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.

Nhìn lại chặng đường đấu tranh oanh liệt của Đảng ta trong 90 năm qua, chúng ta càng trân trọng quá khứ, nâng niu giữ gìn những thành quả của cách mạng, càng thấm thía và biết ơn vô hạn công lao trời biển của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu; càng thấu hiểu, tin yêu và tự hào thêm về dân tộc ta - một dân tộc anh hùng, thông minh và sáng tạo; tự hào về Đảng ta - Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh một lòng một dạ chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Suốt chiều dài lịch sử 90 năm qua, Đảng đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Trong thời kỳ mới, thời kỳ của hội nhập mạnh mẽ, nhân dân tin tưởng, Đảng sẽ tiếp tục vững vàng lãnh đạo đất nước thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế./.