EVFTA là hiệp định có ý nghĩa cho tất cả các bên

Phát biểu khai mạc hội nghị, Thủ tướng nhắc lại, cách đây hơn một năm, vào ngày 30/6/2019, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA) được ký kết, thể hiện tư duy chiến lược, mở ra không gian hợp tác rộng lớn giữa Việt Nam và EU, vì hòa bình, phồn thịnh của mỗi quốc gia.

EVFTA là một FTA thế hệ mới, có tiêu chuẩn cao, toàn diện, độ mở lớn và cân bằng lợi ích cho cả hai bên. Riêng đối với Việt Nam, nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, trong điều kiện bình thường, thì hiệp định sẽ góp phần giúp GDP tăng thêm bình quân lên đến 3,25% cho giai đoạn 5 năm đầu thực hiện, lên đến 5,3% cho 5 năm tiếp theo và lên đến 7,72% trong 5 năm sau đó. Theo một nghiên cứu khác của Ngân hàng Thế giới, nếu thực hiện đồng thời cả EVFTA và CPTPP, thì GDP của Việt Nam có thể tăng thêm tới 3,2% trong thập kỷ 2021-2030.

Với cam kết mở cửa thị trường mạnh mẽ, xóa bỏ thuế nhập khẩu lên tới gần 100% biểu thuế của EU, EVFTA dự kiến sẽ mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu sang EU thêm khoảng 42% vào năm 2025 và gần 45% vào năm 2030 so với kịch bản không có hiệp định và tăng thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam.

Thủ tướng nhấn mạnh: “EU luôn là thị trường có yêu cầu khắt khe về chất lượng và tiêu chuẩn cao đối với hàng hóa, dịch vụ, nơi không có chỗ cho những doanh nghiệp thiếu kiên trì, không sáng tạo, hàng hóa kém chất lượng, do đó EVFTA mở ra cơ hội để Việt Nam đổi mới mô hình tăng trưởng, thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam tự nâng cấp chính mình, chấp nhận những luật chơi mới, khó hơn để tiến sâu hơn, vươn lên những công đoạn có giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng, chuỗi phân phối của EU và toàn cầu”.

Điều này còn có ý nghĩa quan trọng với Việt Nam trong bối cảnh nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn của EU đang có những dịch chuyển đầu tư, đa dạng hóa các chuỗi cung ứng, sản xuất hàng hóa.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì hội nghị

Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cũng nhận định, trải qua một thời gian dài với quyết tâm và sự nỗ lực của cả hai bên, chúng ta đã thu được thành quả to lớn, đánh dấu một cột mốc quan trọng trong việc thúc đẩy mối quan hệ song phương giữa Việt Nam và EU lên một tầm cao mới. Đây là giây phút chúng ta đã mong chờ từ lâu - giây phút đưa EVFTA đi vào cuộc sống.

Có thể nói, EVFTA là một trong những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã tham gia, với nhiều cam kết sâu, rộng, bao hàm cả những nội dung truyền thống và phi truyền thống. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, EVFTA được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều cơ hội thuận lợi đối với kinh tế và xã hội của nước ta.

Nhiệm vụ mới bây giờ đối với cả hai bên là đưa hiệp định vào thực thi một cách hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội của cả Việt Nam và EU.

“Chúng ta đã có nhiều kinh nghiệm đưa các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực vào thực thi trong thời gian vừa qua nên cũng có một số thuận lợi trong quá trình đưa EVFTA vào triển khai trong thời gian tới”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh tin tưởng.

Thách thức đối với cả Nhà nước và doanh nghiệp

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ông Nguyễn Chí Dũng, việc thực hiện EVFTA và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới khác cũng đặt ra những thách thức đối với Việt Nam.

Thực tế cho thấy, thể chế, chính sách, cơ chế quản lý của Việt Nam còn một số mặt hạn chế; hệ thống kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế; năng lực và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu, khả hấp thụ công nghệ hạn chế, gặp nhiều khó khăn trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

“Việc mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư cùng với những cam kết về việc tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài sẽ tạo cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận rộng rãi hơn với thị trường Việt Nam. Điều này đặt các doanh nghiệp Việt Nam trước sức ép cạnh tranh lớn hơn ngay tại thị trường trong nước”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

Việc thực hiện cơ chế giải quyết tranh chấp theo các hiệp định với EU cũng như các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới cũng đặt ra những thách thức lớn hơn trong việc xây dựng, thực thi pháp luật, phòng ngừa và giải quyết có hiệu quả tranh chấp, vướng mắc với nhà đầu tư.

Còn theo Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, một tồn tại lớn nhất là nhận thức của các doanh nghiệp về EVFTA còn hạn chế và việc tận dụng cơ hội còn khiêm tốn. Nhiều cơ quan còn chậm xây dựng văn bản pháp luật liên quan, hướng dẫn thực thi còn thiếu thống nhất, gây khó cho doanh nghiệp. Đồng thời chúng ta còn nhiều hạn chế về hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, chất lượng, quy mô sản xuất còn nhỏ.

Tận dụng những cơ hội từ hiệp định

Tại Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương cần chủ động và tích cực hành động hơn nữa trong việc triển khai Kế hoạch thực thi EVFTA, tăng cường cơ chế phối hợp, bảo đảm sự thống nhất trong quá trình áp dụng và triển khai các cam kết theo hiệp định. Đồng thời, chú trọng khâu đào tạo nguồn nhân lực về quản lý nhà nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh công tác phổ biến tuyên truyền và ban hành kịp thời các văn bản pháp luật, nội luật hóa các cam kết, hướng dẫn thực thi EVFTA.

Đối với các hiệp hội, doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ cũng khuyến nghị doanh nghiệp cần phải thay đổi tư duy quản lý và kinh doanh, chú ý hơn đến việc bảo đảm các nghĩa vụ xã hội, tiêu chuẩn lao động và nguyên tắc bảo vệ môi trường. Thủ tướng cũng khẳng định, Chính phủ sẽ làm vai trò kiến tạo phát triển, tạo khuôn khổ pháp lý thuận lợi, định hướng, khuyến khích doanh nghiệp nỗ lực hành động để có thể nắm bắt được các cơ hội mà EVFTA mang lại.

Đảm nhiệm vai trò là cơ quan đầu mối của Chính phủ về thực thi Hiệp định này, Bộ trưởng Bộ Công Thương cũng kiến nghị 6 giải pháp cụ thể trong thời gian tới.

Thứ nhất là công tác tuyên truyền, phổ biến về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và EVFTA nói riêng.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh nhìn nhận, trong thời gian chúng ta đã làm khá mạnh, quyết liệt và đã đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, chúng ta có thể làm tốt hơn và kết quả thu được có thể tích cực hơn nữa để làm sao các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý và người dân hiểu đúng, hiểu đủ và hiểu rõ về các nội dung của các FTA nói chung và EVFTA nói riêng.

“Do vậy, trong thời gian tới, cần đẩy mạnh hơn nữa công tác này theo hướng đa dạng hóa về hình thức tuyên truyền và chuyên môn hóa về nội dung, hướng tới từng đối tượng cụ thể và đặc biệt cần xây dựng và nâng cao năng lực cho đội ngũ giảng viên, chuyên gia có kiến thức sâu về các FTA và EVFTA. Có như vậy, chúng ta mới có thể quán triệt và thống nhất cao về nhận thức trong việc thực thi đầy đủ và hiệu quả các cam kết của Hiệp định”, Bộ trưởng Bộ Công Thương nói.

Bộ trưởng Trần Tuấn Anh phát biểu tại hội nghị

Thứ hai, để giúp các doanh nghiệp tận dụng được tối đa những cơ hội mà Hiệp định mang lại, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh cho rằng, cần tích cực xóa bỏ những rào cản đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, ban hành chính sách với phương châm tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp, minh bạch và bảo đảm công bằng, không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế.

“Điều quan trọng là chúng ta cần thay đổi tư duy trong việc xây dựng chính sách từ cả ở cấp trung ương và địa phương, đó là lấy doanh nghiệp làm trọng tâm và lấy chuẩn mực quốc tế làm thước đo. Có như vậy, những chính sách được ban hành mới thực sự đi vào cuộc sống và giúp doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh được tốt hơn”, người đứng đầu Bộ Công Thương chia sẻ.

Thứ ba, là việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Đây là giải pháp mà Bộ trưởng Trần Tuấn Anh đánh giá “không phải là vấn đề mới” mà là “thực trạng và bài toán hóc búa chúng ta đã gặp phải từ rất lâu rồi”.

Đối với những lĩnh vực sản xuất công nghiệp, cần phải tiếp tục khuyến khích, đầu tư nhiều hơn vào việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ để giải tỏa những nút nghẽn về nguồn nguyên liệu đầu vào. Đồng thời, cần hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc quảng bá, xúc tiến thương mại đối với sản phẩm đầu ra. Có như vậy, chúng ta mới có thể xây dựng và củng cố các ngành sản xuất đủ năng lực để cạnh tranh được với các sản phẩm nhập khẩu, từ đó đứng vững trên sân nhà và từng bước thâm nhập sâu hơn vào thị trường quốc tế.

Thứ tư, các sản phẩm xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng có nguồn gốc, đầu vào từ tự nhiên như thủy sản hay sản phẩm gỗ cần phải đáp ứng được các quy định về truy xuất nguồn gốc, cụ thể là các sản phẩm đó có được đánh bắt và khai thác một cách hợp pháp hay không.

“Chính vì vậy, một mặt, chúng ta cần có những biện pháp nâng cao nhận thức của người nông dân và doanh nghiệp sản xuất, nhưng mặt khác cũng cần có những giải pháp, chế tài cụ thể đối với những hành vi vi phạm các quy định về đánh bắt và khai thác nguồn tài nguyên trái phép”, Bộ trưởng Bộ Công Thương lưu ý.

Thứ năm là vấn đề về phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và kinh doanh. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, trong thời gian qua, Chính phủ đã có những giải pháp rất cơ bản và mạnh mẽ để phát triển cơ sở hạ tầng trong nước nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế. Bản thân các nhà đầu tư và doanh nghiệp châu Âu cũng rất có thế mạnh trong những ngành như logistics, viễn thông, giao thông…

Do vậy, một mặt Hiệp định EVFTA sẽ tạo cơ hội rộng mở cho các doanh nghiệp châu Âu vào đầu tư tại những lĩnh vực này ở Việt Nam. Mặt khác, với sự tham gia của doanh nghiệp châu Âu thì đây cũng là cơ hội để cơ sở hạ tầng của Việt Nam được phát triển, cải thiện hơn nữa, từ đó đáp ứng và phục vụ tốt hơn cho hoạt động sản xuất và kinh doanh của cả nền kinh tế nói chung.

Cuối cùng, theo Bộ trưởng Trần Tuấn Anh, cần nhận thức đúng đắn rằng, cũng như các FTA khác, Hiệp định EVFTA được xây dựng trên nguyên tắc có đi có lại và cân bằng về lợi ích của cả hai bên”. Theo đó, khi EU xóa bỏ thuế quan cho hàng hóa của Việt Nam có cơ hội trong việc xuất khẩu sang thị trường EU thì ngược lại chúng ta cũng phải có nghĩa vụ mở cửa thị trường của mình cho hàng hóa của châu Âu.

“Vấn đề ở đây là bên cạnh việc trang bị năng lực cạnh tranh cho hàng hóa trong nước, chúng ta cần phải tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh cho hàng hóa của cả hai bên. Điểm đáng lưu ý là EU có cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa mang tính bổ trợ với Việt Nam và do vậy không trực tiếp cạnh tranh với hàng hóa cùng phân khúc của chúng ta. Cũng chính vì thế, những mặt hàng mà EU có thế mạnh khi nhập khẩu vào thị trường Việt Nam như máy móc, thiết bị… sẽ giúp hỗ trợ cho ngành sản xuất trong nước giảm giá thành và nâng cao năng lực sản xuất, từ đó tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh tốt hơn”, Bộ trưởng Trần Tuấn Anh thông tin./.