Với 66 điểm cầu, bao gồm 63 điểm cầu tại phòng họp trực tuyến tại UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Hội nghị nhằm tổng kết công tác năm 2020, đánh giá lại cả quá trình 5 năm vừa qua, cũng như đề ra kế hoạch triển khai Nghị quyết 01 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương báo cáo tại Hội nghị. Ảnh: MPI

Tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương, trong 5 năm 2016-2020, bối cảnh thế giới và trong nước có những thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Đặc biệt, đại dịch Covid-19 chưa từng có trong lịch sử từ đầu năm 2020 đã tác động tiêu cực đến mọi hoạt động kinh tế, xã hội của đất nước.

Trong bối cảnh đó, ngành Kế hoạch và Đầu tư nói chung và Bộ Kế hoạch và Đầu tư với vai trò là cơ quan tham mưu tổng hợp đã có nhiều đổi mới, cải cách mạnh mẽ, đề ra phương châm hành động, tham mưu cho Chính phủ các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình mới và cùng với các bộ, cơ quan trung ương và địa phương quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra tại các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, góp phần quan trọng vào thành tựu chung phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trình và bảo vệ thành công trước Quốc hội 6 đạo luật quan trọng

Trong nhiệm kỳ vừa qua, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật được Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định là nhiệm vụ trọng tâm, được Bộ trưởng quan tâm và trực tiếp chỉ đạo sát sao, quyết liệt. Nhờ đó, Bộ đã hoàn thành nhiệm vụ báo cáo Chính phủ, trình và bảo vệ thành công trước Quốc hội 6 đạo luật quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, gồm: Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư (sửa đổi), Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).

Bên cạnh đó, Bộ cũng đã hoàn thành khối lượng lớn các văn bản hướng dẫn trình cấp có thẩm quyền ban hành: các nghị định, thông tư, nghị quyết… Công tác tham mưu, xây dựng thể chế đã thể hiện vai trò tiên phong của Bộ trong việc chủ động đề xuất cải cách, đổi mới hướng tới mục tiêu tạo hành lang pháp lý cho việc cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao hiệu quả phân bổ, huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển; thúc đẩy kinh tế tư nhân, đổi mới sáng tạo, tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh cải cách, nhất là thủ tục hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh,…

Thứ trưởng cũng cho biết, Bộ đã chủ trì xây dựng trình Chính phủ ban hành các Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020 và Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021.

Bộ đã báo cáo Chính phủ, trình Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) ban hành Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế; trình Quốc hội ban hành Nghị quyết về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020; trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; trình Chính phủ ban hành Nghị quyết về triển khai thực hiện Kết luận của Bộ Chính trị về tình hình thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Đặc biệt năm 2020, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát trên thế giới đã tác động mạnh mẽ đến toàn bộ các lĩnh vực kinh tế - xã hội của nước ta, Bộ đã chủ động xây dựng các nghị quyết, chỉ thị, công điện, đề án, tờ trình, báo cáo về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, bảo đảm an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội, khắc phục tác động của đại dịch Covid-19 để phục hồi và phát triển kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ, Bộ Chính trị, Quốc hội.

59/63 địa phương đã hoặc đang hoàn thiện phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch tỉnh

Về công tác quy hoạch, ngay sau khi Luật Quy hoạch được Quốc hội thông qua, Bộ đã tham mưu Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn và chủ động, tích cực phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, địa phương triển khai ngay các bước xây dựng, phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch theo quy định.

Thứ trưởng chỉ rõ, mặc dù còn nhiều bỡ ngỡ trước các quy định mới, phương pháp mới, nhưng đến nay, nhiều quy hoạch ngành quốc gia đã được các bộ khẩn trương triển khai.

“59/63 địa phương đã hoặc đang hoàn thiện phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch tỉnh, Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được bước tiến đáng kể, đang trong quá trình hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định, với nhiều nội dung cải cách, đổi mới, đột phá, nhất là về quan điểm và phương pháp tiếp cận phát triển vùng trong bối cảnh ứng phó với biến đổi khí hậu…”, Thứ trưởng cho biết thêm thông tin.

Giải ngân vốn đầu tư công năm 2020 đạt được kết quả đáng ghi nhận

Về công tác quản lý đầu tư công, Thứ trưởng Trần Quốc Phương cho hay, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án cơ cấu lại đầu tư công giai đoạn 2017-2020 và định hướng đến năm 2025 để làm căn cứ triển khai các nhiệm vụ từng bước cơ cấu lại đầu tư công; từng bước triển khai các giải pháp quản lý hiệu quả hơn toàn bộ quá trình đầu tư công, từ chủ trương đầu tư đến lập, thẩm định, phê duyệt kế hoạch đầu tư; thực hiện kế hoạch, theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra kế hoạch đầu tư công, đẩy mạnh phân cấp trong quản lý hoạt động đầu tư công gắn với trách nhiệm của từng cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý sử dụng vốn nhà nước đối với toàn bộ quá trình đầu tư.

“Việc lập và giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2016-2020 đã được đổi mới theo hướng hiện đại, tập trung, công khai, minh bạch, tăng cường phân cấp cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương gắn liền với việc theo dõi, đánh giá, kiểm tra việc thực hiện cũng như công tác chỉ đạo, điều hành quyết liệt đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nhà nước”, Thứ trưởng nhận định.

Bên cạnh đó, Bộ đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đầu tư công. Công tác phối hợp với các địa phương được đổi mới mạnh mẽ, giúp giảm thời gian, chi phí cho các địa phương, chuyển từ làm việc với từng địa phương sang làm việc theo vùng, theo nhóm, nâng cao sự phối hợp, hiểu biết lẫn nhau giữa các địa phương.

Nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, những năm vừa qua Bộ đã tham mưu trình Chính phủ ban hành các Nghị quyết về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công.

Đặc biệt, việc thực hiện các giải pháp quyết liệt thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công năm 2020 đã đạt được kết quả đáng ghi nhận, ước giải ngân đến ngày 31/12/2020 đạt 82,8%. Đây là năm có tỷ lệ giải ngân cao nhất trong cả giai đoạn 2016-2020.

Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: MPI

Với mục tiêu tiếp tục quản lý có hiệu quả vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước, nâng cao tính minh bạch, tập trung nguồn lực cho các nhiệm vụ trọng tâm, trong phân bổ vốn đầu tư công, Bộ đã báo cáo Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 973/2020/UBTVQH14 ngày 08/7/2020 quy định về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn NSNN giai đoạn 2021-2025 và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 26/2020/QĐ-TTg ngày 14/9/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị quyết số 973/2020/UBTVQH.

Những bước tiến trong xây dựng đổi mới sáng tạo quốc gia

Cụ thể hóa tinh thần các Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quốc hội về xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhằm khuyến khích phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, tận dụng tối đa cơ hội phát triển kinh tế mới, góp phần đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng phát triển khoa học và công nghệ, Bộ đã chủ trì xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia; trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định cơ chế chính sách ưu đãi và khuyến khích đối với Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia.

Đồng thời, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án Thúc đẩy mô hình kinh tế chia sẻ và đề án Phát triển kinh tế ban đêm ở Việt Nam; trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Chiến lược quốc gia về Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tại Việt Nam; chủ trì xây dựng Mạng lưới nhân lực thực hiện Chiến lược quốc gia về cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc công bố sáng kiến “Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam”…

Công tác xây dựng cơ chế, chính sách về đổi mới và phát triển doanh nghiệp giai đoạn vừa qua tiếp tục được Bộ đặc biệt quan tâm. Bộ đã chủ trì báo cáo Ban cán sự đảng Chính phủ trình Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/06/2017 về Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và trình Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết này; trình Chính phủ ban hành các Nghị quyết về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia; cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp; khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp hiệu quả, an toàn và bền vững,…

“Việc hoàn thiện khung khổ pháp lý về đầu tư, doanh nghiệp, huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài (FDI, ODA) đã góp phần tích cực thay đổi môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, mở rộng, đa dạng hóa các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển”, Thứ trưởng cho biết thêm.

Công tác thống kê: “trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời”

Trong năm qua, Bộ đã thực hiện tốt công tác thống kê, bảo đảm thông tin thống kê luôn tuân thủ theo nguyên tắc “trung thực, khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời” để phục vụ tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành kinh tế - xã hội của Đảng, Quốc hội và Chính phủ.

Các báo cáo tháng, quý và cả năm đã được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn với chất lượng ngày càng nâng cao; việc thông cáo báo chí về số liệu thống kê kinh tế - xã hội tiếp tục được duy trì đúng thời hạn. Bộ đã trình Chính phủ ban hành các Nghị định, xây dựng các chương trình, đề án để triển khai thực hiện Luật Thống kê và Chiến lược phát triển Thống kê Việt Nam đến năm 2020.

Bộ đã triển khai thành công các cuộc điều tra quan trọng, như: Điều tra doanh nghiệp năm 2016; Điều tra GDP quý theo phương pháp sản xuất và sử dụng; Điều tra khảo sát mức sống dân cư; Tổng điều tra kinh tế năm 2017; Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019; Điều tra đột xuất đánh giá tác động của dịch Covid-19 tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp năm 2020...

“Đặc biệt trong thời gian qua, Bộ đã ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong công tác thống kê, kịp thời cung cấp số liệu thống kê cập nhật cho các địa phương phục vụ báo cáo Đại hội đảng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”, Thứ trưởng Phương nói.

9 nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2021

Năm 2021 là năm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, các kế hoạch 5 năm theo các kết luận, nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ chỉ đạo toàn diện các lĩnh vực đối với Ngành và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, yêu cầu phát huy tối đa các mặt tích cực, kết quả đạt được trong những năm qua và khẩn trương khắc phục những mặt còn hạn chế, bất cập.

Thứ trưởng Phương nhấn mạnh, với quyết tâm nỗ lực hoàn thành vượt mức các mục tiêu, nhiệm vụ năm 2021, tiếp tục khẳng định, nâng cao vị thế của Ngành và Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong công tác tham mưu tổng hợp chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư công, năm 2021, Bộ tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như:

Một là, thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Quốc hội và Chính phủ, nhất là Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2021 của Chính phủ. Phối hợp hiệu quả với các cơ quan liên quan triển khai chương trình, kế hoạch công tác phục vụ tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khoá XV và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.

Hai là, tập trung hoàn thiện các báo cáo về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 và các báo cáo quan trọng khác, trình Chính phủ để trình Quốc hội, tạo điều kiện cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương sớm triển khai kế hoạch của bộ, ngành, địa phương mình.

Ba là, tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới; Chủ động nghiên cứu, đề xuất những chính sách cụ thể để tiếp tục tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19 phù hợp với diễn biến thực tiễn. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trong việc điều hành hiệu quả các chính sách tài khóa, tiền tệ và các chính sách khác để kích thích tổng cầu phù hợp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng; đồng thời giữ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.

Bốn là, tổ chức xây dựng và triển khai ngay kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 sau khi được thông qua. Tập trung hoàn thành và nâng cao chất lượng công tác chuẩn bị đầu tư; quyết liệt thực hiện các giải pháp về đẩy mạnh giải ngân. Thu hút có chọn lọc các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài, nhất là các luồng vốn FDI dịch chuyển trong khu vực và toàn cầu. Đẩy mạnh đầu tư theo phương thức đối tác công tư.

Năm là, phối hợp, triển khai tốt các giải pháp đẩy mạnh cơ cấu lại lĩnh vực dịch vụ vận tải, nâng cao năng lực và giảm chi phí dịch vụ logistics; thúc đẩy triển khai hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký kết; kịp thời hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ để khai thác và tận dụng các ưu đãi, nhất là việc hỗ trợ doanh nghiệp kết nối qua các nền tảng số, xuất khẩu qua các nền tảng thương mại điện tử lớn.

Sáu là, phối hợp hiệu quả với các cơ quan liên quan hoàn thiện cơ chế, chính sách để sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa đơn vị sự nghiệp công lập đủ điều kiện. Tham gia xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các loại hình kinh doanh mới, kinh tế số, cung cấp dịch vụ công, kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, đô thị thông minh… đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của nền kinh tế. Đẩy nhanh và triển khai toàn diện chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp Việt Nam, trong đó chú trọng doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Bẩy là, nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã; phát triển mạnh kinh tế tư nhân, kết hợp hài hòa giữa hiệu quả kinh tế với trách nhiệm xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, thúc đẩy liên kết doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp tư nhân có quy mô vừa và lớn; thúc đẩy khởi nghiệp, sáng tạo, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để khai thác thị trường nội địa và tham gia hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Tám là, tăng cường đẩy mạnh kết nối, tích hợp, chia sẻ dữ liệu, để hình thành hệ thống thông tin thống kê quốc gia phục vụ quản lý, điều hành. Phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương, địa phương tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quan trọng, công trình trọng điểm quốc gia, các dự án liên kết vùng, phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn. Đẩy nhanh việc lập và phê duyệt các quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn giai đoạn 2021-2030.

Chín là, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp, cơ cấu lại ngành nông nghiệp phù hợp với từng vùng miền, thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp quy mô lớn theo nhu cầu thị trường, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, ứng dụng công nghệ cao./.