Cần chính sách hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa
Theo ông An Văn Khanh, Phó Cục trưởng Cục Chế biến nông lâm thủy sản và nghề muối, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, triển khai việc thực hiện Quyết định số 68/2013/QĐ-TTg, các bộ, ngành, địa phương đã triển khai tích cực, bước đầu đáp ứng được yêu cầu cấp thiết của sản xuất nông nghiệp, nhất là vùng sản xuất lúa hàng hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long và nhận được sự đồng tình cao của nông dân cả nước.
Chính sách hỗ trợ đã tạo bước tăng trưởng nhanh về cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, nhất là trong lĩnh vực canh tác và thu hoạch lúa, hiệu quả đạt được cao hơn hẳn so với lao động thủ công. Đến nay, khâu làm đất lúa đạt 92%, cao nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long đạt 98%; mía đạt 80%; Ngô: 70%; Sắn: 80%; Vùng rau chuyên canh: 90%. Khâu gieo, trồng: đối với lúa gieo bằng công cụ xạ hàng và cấy đạt 30%; mía trồng bằng máy: 30%...
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ cũng tạo điều kiện khuyến khích, thúc đẩy các cơ sở cơ khí chế tạo máy nông nghiệp trong nước đầu tư chiều sâu, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng máy móc thiết bị.
Nhờ có Chính sách hỗ trợ và một số cơ chế chính sách của địa phương ban hành đã thúc đẩy người dân mạnh dạn đầu tư mua sắm máy, thiết bị phát triển sản xuất nông nghiệp, bảo quản chế biến nông lâm thủy sản, nâng cấp công nghệ thiết bị.
Về chính sách tín dụng, đại diện Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng cho biết: sau 05 năm việc triển khai chính sách tín dụng đã giúp hộ dân, doanh nghiệp mạnh dạnh đầu tư máy móc thực hiện cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp; chính sách cũng đã tạo điều kiện khuyến khích, thúc đẩy các cơ sở cơ khí chế tạo máy trong nước đầu tư chiều sâu, cải tiến công nghệ...
Kết quả cho vay hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp luôn tăng trưởng qua các năm, đến cuối tháng 6/2015, doanh số cho vay triển khai chương trình đạt 3.468 tỷ đồng, dư nợ 2.438 tỷ đồng, tăng 32% so với 31/12/2014. Doanh số cho vay tăng mạnh qua các năm, nếu như năm 2011 doanh số cho vay chỉ đạt 474 tỷ đồng, thì đến tháng 6/2015 đã tăng gấp 7,3 lần so với năm đầu triển khai chương trình. Số lượng khách hàng vay vốn theo chính sách này là 14.233 lượt, số lượng khách hàng hiện còn dư nợ 9.813 khách hàng.
Mặc dù vậy, theo ông Khanh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong thực hiện: nhiều địa phương đã tổ chức triển khai chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp nhưng kết quả thực hiện thấp hoặc người dân chưa tiếp cận được chính sách, thể hiện: số lượt khách hàng và doanh số cho vay còn thấp, qua báo cáo của 41 tỉnh thì có 22 tỉnh có dư nợ cho vay. Việc triển khai thực hiện chính sách vẫn còn thiếu sự phối hợp đồng bộ của các cơ sở, ngành liên quan.
Bên cạnh đó, lãi suất tín dụng đầu tư của Nhà nước còn cao, hiện nay là 8,55%/năm, không có sự chênh lệch nhiều so với lãi suất cho vay thương mại nên chưa khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng các dự án dây chuyền máy móc... Điều này cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến doanh số cho vay toàn bộ chương trình.
Đại diện Ngân hàng Nhà nước cũng cho rằng, số lượt khách hàng và doanh số cho vay còn thấp. Việc quy định doanh sách chủng loại máy, thiết bị được hưởng chính sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp hiện nay còn hạn chế. Cơ chế, chính sách hỗ trợ hiện đang áp dụng đối với nông sản mà chưa áp dụng trong lĩnh vực lâm nghiệp.
Về phía địa phương: ông Nguyễn Phùng Hoan, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nam Định, cũng đưa ra những khó khăn, hạn chế của Tỉnh khi thực hiện Quyết định số 68, như: nhiều chủ hộ mua máy móc, thiết bị cơ giới hóa nhưng không thể tiếp cận được với nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại. Với các máy móc với suất đầu tư không lớn thì các hộ dân, tổ đội dịch vụ sau khi gặp gỡ các chi nhánh ngân hàng thương mại tại địa phương đã không muốn làm thủ tục vay vốn hỗ trợ lãi suất, do thủ tục quá phức tạp với các rào cản của ngân hàng khi không muốn cho vay.
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ông Lê Tuấn Quốc, cũng cho biết: Lĩnh vực đầu tư cho giảm tổn thất thủy sản là rất lớn, nhưng ngư dân tiếp cận vốn vay ngân hàng rất khó khăn do đa số người nông dân chưa biết xây dựng Dự án thuyết minh quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm.
Để gỡ khó, đại diện các sở nông nghiệp và phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố cho rằng: cần phải tăng cường hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các chính sách về nông nghiệp, nông thôn đến các cấp, các ngành và người dân.
Nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2020 giảm 50% tổn thất đối với các loại nông sản, thủy sản cần có tác động mạnh hơn từ Quyết định 68; xem xét lãi suất đầu tư phát triển cho đầu tư dài hạn để thực hiện các Dự án bảo quản.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng, hợp tác công - tư, đặt doanh nghiệp vào vị trí trung tâm kết hợp với các nhà khoa học để thực hiện các dự án bảo quản giảm tổn thất sau thu hoạch; thường xuyên khảo sát, điều tra, đánh giá mức độ tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản.
Bộ trưởng Cao Đức Phát cho rằng, Quyết định 68 mới cụ thể hóa 2 trong số 13 giải pháp được đưa ra trong Nghị quyết 48. Vì vậy, Bộ trưởng yêu cầu Cục Chế biến Nông lâm thủy sản và Nghề muối rà soát và báo cáo lại với Bộ 11 giải pháp còn lại để có những điều chỉnh chính sách và tổ chức triển khai thực hiện cho phù hợp./.
Bình luận