Từ kinh nghiệm của Quảng Ninh…

Năm 2013, UBND tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt và triển khai đề án “Tỉnh Quảng Ninh - mỗi xã, phường một sản phẩm”, đưa Quảng Ninh trở thành tỉnh tiên phong của cả nước triển khai thực hiện chương trình này một cách bài bản, có hệ thống. Sau ba năm thực hiện Chương trình, Quảng Ninh đã thu hút 180 doanh nghiệp tham gia, thực hiện 103 dự án hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm OCOP. Đến hết năm 2016, đã có 210 sản phẩm có lợi thế quốc gia, như: lợn Móng Cái, gà Tiên Yên, tôm thẻ chân trắng, hàu Thái Bình Dương; ba kích, trà hoa vàng; miến dong, gạo nếp cái hoa vàng... đăng ký tham gia OCOP. Trong đó đã đánh giá và phân hạng 121 sản phẩm, kết quả có 99 sản phẩm đạt tiêu chuẩn từ 3-5 sao, cấp giấy chứng nhận cho 39 sản phẩm và Tỉnh đang tập trung hoàn thiện các chỉ tiêu về an toàn thực phẩm, y tế đối với 60 sản phẩm OCOP còn lại.

Tỉnh đã ban hành một loạt các chính sách hỗ trợ như hỗ trợ lãi suất tiền vay, hỗ trợ ứng dụng công nghệ, mua sắm máy móc, thuê gian hàng, tổ chức hội chợ và đã đầu tư gần 300 tỷ đồng cho chương trình này, không chỉ tạo điều kiện cho các đơn vị tham gia đi vào khởi sự mà còn tạo nền lâu dài cho cho chương trình.

Quảng Ninh cũng đã chủ động nghiên cứu ban hành bộ công cụ quản lý chương trình như: Xây dựng nhãn hiệu OCOP; Ban hành bộ tiêu chí đánh giá, phân hạng sản phẩm OCOP; Chu trình chuẩn OCOP (gồm 6 bước tiến hành) và đã tổ chức nhiều hội chợ quảng bá để tạo điều kiện cho các đơn vị và sản phẩm tham gia được cọ xát, được đánh giá bởi thị trường.

Lãnh đạo Trung ương và tỉnh Quảng Ninh tham quan các sản phẩm OCOP Quảng Ninh

Điều đáng chú ý, Chương trình OCOP đã có sự tham gia đầy đủ của các “nhà”, đặc biệt là Nhà nước với hệ thống chính quyền từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã. Đồng thời, tổ chức điều tra, thu thập thông tin, đánh giá các sản phẩm chủ lực, truyền thống, đặc trưng mang tính chất vùng xã, liên xã, các sản phẩm mang đặc trưng cả Tỉnh. Trên cơ sở phát triển sản phẩm, tỉnh Quảng Ninh đã xây dựng quy hoạch 17 vùng sản xuất tập trung cấp tỉnh và trên 50 vùng sản xuất tập trung cấp huyện, xã, đưa tiềm năng, lợi thế của mỗi địa phương được đầu tư, khai thác có hệ thống. Theo thống kê, doanh số bán hàng trong 3 năm qua từ phong trào này của tỉnh Quảng Ninh đạt hơn 670 tỷ đồng, vượt gấp 3 lần so với mục tiêu đặt ra.

…tạo sức lan tỏa ra cả nước

Từ kết quả của Quảng Ninh, có thể thấy chương trình OCOP đem lại nhiều ý nghĩa: Nâng cao hoặc phát triển mới, tạo ra nhiều lại sản phẩm tốt, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của thị trường, qua đó tăng thu nhập cho các thành viên tham gia, trước hết là cư dân nông thôn; Là giải pháp thiết thực thúc đẩy cơ cấu kinh tế lại nông thôn; Rất phù hợp với đặc điểm chủ yếu sản xuất quy mô nhỏ của nông thôn nước ta và do đó sẽ khai thác hiệu quả hơn tiềm năng đa dạng của truyền thống sản xuất, của sinh thái và văn hóa tạo sự đa dạng cho sản phẩm đặc hữu, đậm chất văn hóa của các vùng quê; Thúc đẩy đưa khoa học công nghệ vào sản xuất, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ theo yêu cầu của thị trường; Tạo môi trường thúc đẩy liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp, nhà khoa học, các hợp tác xã hình thành có “chất” và mới có “đất” để phát triển bền vững; Tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo của người dân để tạo ra các sản phẩm đặc sản là niềm tự hào của quê hương, góp phần thúc đẩy phát triển du lịch nông thôn, quảng bá hình ảnh địa phương và quốc gia.

Do đó, có thể khẳng định chương trình OCOP là giải pháp hữu hiệu cho xây dựng nông thôn mới ở nước ta.

Trên thực tế, đề án OCOP đã được triển khai nhằm thực hiện việc phát triển hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh các sản phẩm truyền thống, có lợi thế ở khu vực nông thôn, góp phần tái cơ cấu nền kinh tế nông thôn theo hướng phát triển nội sinh và gia tăng giá trị; thực hiện có hiệu quả nhóm tiêu chí “Kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất” trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới. Mô hình OCOP do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khởi xướng và triển khai thí điểm từ năm 2008. Nhiều địa phương như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Lâm Đồng… đã thực hiện chương trình, nhưng chưa đạt được kết quả cao như mong đợi.

Dựa trên kinh nghiệm của Quảng Ninh, nếu muốn nhân rộng mô hình OCOP thì Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ ban đầu cho địa phương khi “khởi nghiệp” hoặc hỗ trợ nhóm “sản phẩm địa phương” trong chiến lược phát triển thành nhóm “Sản phẩm quốc gia”.

Bên cạnh đó, theo ông Tăng Minh Lộc, Phó Chủ tịch Hội Phát triển khoa học nông nghiệp Việt Nam, các tỉnh, thành phố cần đưa chương trình OCOP thành một chương trình kinh tế trọng điểm của địa phương. Phải xác định được nhóm các sản phẩm lợi thế trên địa bàn, từ đó có đầu tư đúng tầm từ khâu đầu của sản xuất cho đến khâu cuối là tiêu thụ.

Ngoài chính sách chung của Trung ương, mỗi địa phương rất cần phải có chính sách và giải pháp sát hợp để đạt mục tiêu trong đó quan trọng nhất là chính sách thúc đẩy liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp, chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ. Hơn nữa, phải nghiên cứu ban hành bộ tiêu chí đánh giá sản phẩm để định hướng sản xuất cho người dân.

Đồng thời, giúp người dân tổ chức các hội chợ để người sản xuất về sản phẩm được cọ xát, chịu sự đánh giá của thị trường. Đặc biệt quan trọng là phải hình thành được đội ngũ chuyên gia, giúp việc Ban chỉ đạo đúng tầm. Đây có thể coi là yếu tố quyết định sự thành công ở mỗi địa phương./.

Theo thống kê, cả nước hiện có 4.575 làng nghề, trong đó có 3.251 làng có nghề và 1.324 làng nghề được công nhận theo tiêu chí của Thông tư số 116/2006/TT-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn thực hiện một số nội dung, của Nghị định 66/2006/NЖCP về phát triển ngành nghề nông thôn. Các làng nghề truyền thống hiện thu hút khoảng 20 triệu lao động, bằng 24% tổng số lao động nông thôn. Trong đó, 30% số lao động có việc làm thường xuyên, còn lại là lao động thời vụ. Do vậy, việc phát triển ngành nghề nông thôn nói chung và các sản phẩm vùng miền nói riêng là rất quan trọng.