Lê Thị Tuyết Nga

Trường Đại học Thương mại

Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona gây ra (Covid-19) xuất phát từ Trung Quốc đang diễn biến nghiêm trọng, phức tạp và chưa dự báo được đỉnh dịch, thời điểm kết thúc, quy mô, cũng như phạm vi tác động. Việt Nam có quan hệ kinh tế - thương mại lớn và giao lưu nhiều mặt với Trung Quốc, độ mở của nền kinh tế lớn, nên dịch Covid-19 ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp đến nền kinh tế nước ta, đặc biệt là trong thương mại song phương giữa 2 nước. Trong bối cảnh khó khăn, việc tìm ra những giải pháp khắc phục, tìm cơ hội trong khó khăn là cần thiết để Việt Nam có thể giảm bớt sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc.

XUẤT - NHẬP KHẨU VIỆT NAM - TRUNG QUỐC NĂM 2019

Trung Quốc vốn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam với nhiều cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu quốc gia, cửa khẩu phụ, là nơi giao nhận, thông thương một số lượng lớn hàng hóa xuất - nhập khẩu giữa hai nước. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, năm 2019, trong hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ Việt Nam có quan hệ ngoại thương, Trung Quốc tiếp tục duy trì vị thế là thị trường lớn nhất và là năm thứ hai liên tiếp kim ngạch giữa 2 nước đạt 100 tỷ USD trở lên. Cụ thể, năm 2019, tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc đạt 116,866 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu của Việt Nam là 41,414 tỷ USD và nhập khẩu tới 75,45 tỷ USD (Bảng).

Bảng: Xuất - nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2019

Đơn vị tính: Tỷ USD

Nguồn: Tổng cục Hải quan

So với năm 2018, kim ngạch xuất - nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc tăng thêm hơn 10 tỷ USD. Như vậy, riêng thị trường Trung Quốc chiếm đến 22,6% tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của cả nước trong năm 2019. Cán cân thương mại của nước ta với Trung Quốc trong năm 2019 thâm hụt lên tới hơn 34 tỷ USD.

Về xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc, năm 2019 Trung Quốc là thị trường lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau Mỹ, với 41,41 tỷ USD. Trong 45 mặt hàng chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc, có 30 mặt hàng đạt trên 100 triệu USD, đặc biệt có 11 mặt hàng đạt trên 11 tỷ USD (máy tính, sản phẩm điện tử, linh kiện; điện thoại và linh kiện; rau quả; xơ sợi; giày dép; dệt may…). 45 mặt hàng chủ yếu trên được chia thành 3 nhóm quan trọng. Đáng quan tâm nhất là nhóm mặt hàng nông, lâm - thủy sản có kim ngạch đạt 8,21 tỷ USD. Do vậy, sự tăng, giảm kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này vào Trung Quốc sẽ tác động lớn đối với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Covid-19 đã khiến Trung Quốc hạn chế thông thương, khiến các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng lớn.

Theo chiều ngược lại, trong cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc, rất nhiều hàng hóa là nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho một số ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Năm 2019, Việt Nam nhập khẩu 11,52 tỷ USD hàng dệt may, da giày từ Trung Quốc, chiếm 47,74% tổng kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng này của Việt Nam. Tương tự, Trung Quốc là đối tác lớn nhất cung cấp hóa chất và sản phẩm từ hóa chất; chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm từ chất dẻo cho Việt Nam, đạt lần lượt 3,23 tỷ USD (chiếm 30,6% tổng kim ngạch mặt hàng này) và 3,99 tỷ USD (chiếm 25,7% tổng kim ngạch mặt hàng này). Điều này cho thấy một số ngành sản xuất, xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào nguồn nguyên liệu đầu vào từ Trung Quốc, sẽ chịu tác động tiêu cực (nhất là trong quý I và quý II/2020) do thiếu nguyên liệu đầu vào, gián đoạn chuỗi cung ứng (trong khi tồn kho và nguồn thay thế còn hạn chế).

TÁC ĐỘNG CỦA COVID-19 TỚI THƯƠNG MẠI VIỆT – TRUNG

Là quốc gia có đường biên giới dài với Trung Quốc, ngay từ đầu đợt dịch Covid-19 (đầu năm 2020), công tác phòng, chống dịch của Việt Nam luôn ở mức cao hơn so với các khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Việc thực hiện hàng loạt các biện pháp cứng rắn, nghiêm ngặt để ngăn dịch bệnh lây lan, như: hạn chế xuất - nhập cảnh, tạm ngừng hoạt động trao đổi cư dân qua biên giới, cách ly các thành phố, hạn chế lưu thông tại hầu hết các địa phương của Trung Quốc và không có lực lượng hải quan, giao nhận hàng tại các cửa khẩu dẫn đến khả năng ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc, trước mắt và trực tiếp nhất là xuất khẩu các mặt hàng nông sản mùa vụ (như: thanh long, dưa hấu). Tác động đối với hoạt động sản xuất, xuất khẩu phụ thuộc vào thời gian dịch bệnh kéo dài. Nhập khẩu từ Trung Quốc cũng có xu hướng giảm do hoạt động sản xuất đang bị ngưng trệ.

Điển hình, tình trạng ùn tắc, dư cung cục bộ sẽ diễn ra do hạn chế giao dịch tại các cặp chợ biên giới trên địa bàn tỉnh Quảng Tây, Vân Nam. Trong khi đó, Trung Quốc là thị trường khổng lồ của nông sản Việt Nam, hàng năm lượng hàng xuất sang Trung Quốc chiếm 22%-25% kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, có một số nhóm nông sản, thị trường Trung Quốc chiếm phần lớn.

Việc xuất khẩu sang Trung Quốc sẽ gặp khó khăn khi thông thương nội địa và quốc tế của Trung Quốc bị đình trệ. Nhiều nhà nhập khẩu Trung Quốc cũng thông báo tới các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam tạm dừng giao hàng. Cùng với đó, việc Việt Nam tạm dừng đường bay với các sân bay Trung Quốc cũng cản trở hoạt động giao dịch, trao đổi, làm việc giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý hai bên trong lĩnh vực thương mại nông sản. Với các mặt hàng nông, lâm - thủy sản xuất khẩu sang Trung Quốc, đáng ngại nhất là thủy sản, rau quả… Ngoài việc đây là những mặt hàng có kim ngạch lớn, có một số mặt hàng có tỷ trọng xuất khẩu tiểu ngạch lớn, thì việc bảo quản thường khó khăn, dễ bị hư thối khi không kịp xuất khẩu.

Theo Tổng cục Hải quan, hết tháng 01/2020, tổng trị giá xuất - nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc sơ bộ đạt 8,29 tỷ USD, giảm 25,8% so với tháng 12/2019 và giảm 11,8% so với cùng kỳ năm 2019. Đáng chú ý, xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 2,75 tỷ USD, giảm 35,3% so với tháng 12/2019 và nhập khẩu đạt 5,54 tỷ USD, giảm 20,1%. Còn thống kê theo giá trị trung bình theo ngày làm việc (trừ ngày thứ bảy, chủ nhật và ngày nghỉ lễ quốc gia) trong tháng 1/2020 cho thấy, trị giá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 130,52 triệu USD/ngày, giảm 20,18% so với tháng 12/2019, nhưng tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2019.

Nguyên nhân dẫn đến kim ngạch xuất - nhập khẩu với Trung Quốc giảm trong tháng 1 so với tháng 12/2019, ngoài lý do thời gian nghỉ Tết Nguyên đán của hai nước kéo dài và rơi vào tháng Giêng, còn do dịch bệnh Covid-19 khiến hoạt động kinh tế và sản xuất của Trung Quốc gần như bị tê liệt. Điển hình, trong 3 ngày làm việc sau nghỉ Tết Nguyên đán (30-31/01/2020 và 03/02/2020), tổng trị giá xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 82,1 triệu USD/ngày, chỉ bằng 63% ngày làm việc thông thường trong tháng 01/2020.

Trong số các mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc, bị ảnh hưởng nặng nhất là nông sản. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ngày 03/02/2020, ngành hàng đầu tiên chịu tác động là sản phẩm hoa quả, cụ thể là mặt hàng thanh long và dưa hấu đang gặp nhiều khó khăn. Đây là hai mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong số các nông sản xuất sang Trung Quốc trong dịp Tết và đang bị ứ đọng tại biên giới Việt - Trung do hai bên đều hạn chế giao dịch. Hai mặt hàng khác cũng sẽ gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu sang Trung Quốc, đó là sữa và thủy sản. Do ảnh hưởng của Covid-19, xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc ngừng trệ, kéo tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản trong tháng 01/2020 xuống 644 triệu USD, giảm 12,5% so với cùng kỳ năm 2019. Các hệ thống nhà hàng của Trung Quốc ngừng hoặc giảm tiêu thụ sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Hiện tại, một số doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản sang Trung Quốc đang bị tồn kho. Chi phí bảo quản đông lạnh không hề nhỏ, dù doanh nghiệp có kho lạnh hay phải đi thuê.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, không phải đến khi dịch Corona bùng phát, thì hoạt động xuất khẩu nông, thủy sản của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc mới gặp khó khăn. Thực tế, từ năm 2018, hệ thống các cơ quan kiểm nghiệm - kiểm dịch của Trung Quốc được sáp nhập vào Tổng cục Hải quan Trung Quốc. Nước này cũng đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp để bảo đảm thực thi nghiêm túc và đầy đủ các quy định về kiểm nghiệm - kiểm dịch, truy xuất nguồn gốc, bao bì, nhãn mác... Đây là một trong những nguyên nhân khiến xuất khẩu nông, thủy sản của Việt Nam sang Trung Quốc bị chững lại và có xu hướng giảm trong 2 năm trở lại đây, sau nhiều năm tăng trưởng khá. Nông sản Việt Nam chưa đạt các tiêu chuẩn truy xuất nguồn gốc được xem là vướng mắc lớn nhất với thị trường hơn 1,4 tỷ dân này.

Cũng vì dịch bệnh, thông thương đường sắt và hàng không với Trung Quốc bị giảm khiến Việt Nam không thể nhận được đúng thời hạn nguyên vật liệu, sản phẩm từ Trung Quốc, ảnh hưởng đến thời hạn giao hàng cho bên thứ ba. Trong tháng 01/2020, trị giá nhập khẩu hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc tính trung bình theo ngày đạt 261,47 tỷ USD/ngày, giảm 6,5% so với tháng 12/2019 và giảm 2,1% so với tháng 01/2019. Trong khi cơ cấu nhập khẩu từ Trung Quốc của Việt Nam hầu hết là nguyên, vật liệu sản xuất. Vì thế, khi hạn chế thông thương vì dịch Covid-19, nguyên liệu không nhập được, khiến việc sản xuất của ngành bị ảnh hưởng lớn, doanh nghiệp điêu đứng, kéo theo lao động không có việc làm.

CẦN TÌM CƠ HỘI TRONG KHÓ KHĂN

Để hạn chế những khó khăn do dịch bệnh xảy ra, hạn chế thấp nhất những tổn thất, trong thời gian tới, cần quan tâm thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, có các kịch bản ứng phó kịp thời. Trong bối cảnh dịch bệnh chưa biết khi nào kết thúc, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có báo cáo đánh giá tác động của Covid-19 đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong hoạt động xuất - nhập khẩu với Trung Quốc, cơ quan này đã đưa ra 2 kịch bản dựa vào thời điểm kết thúc dịch bệnh, cụ thể là:

(1) Kịch bản 1: Dịch Covid-19 kết thúc cuối quý I/2020

- Xuất khẩu: Ước tính quý I đạt kim ngạch 53,9 tỷ USD, giảm 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 6,8 tỷ USD, giảm 9,5% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu sang Trung Quốc: các mặt hàng nông sản và nông sản chế biến, hàng lâm sản giảm khoảng 10,4%, hàng thủy sản giảm 11,4%.

- Nhập khẩu: Ước tính trong quý I, kim ngạch nhập khẩu đạt 55,5 tỷ USD, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc đạt kim ngạch 14 tỷ USD, giảm 13,6%. Ước tính nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng từ Trung Quốc giảm 11%; nguyên, nhiên, vật liệu giảm 16%; hàng tiêu dùng giảm khoảng 17%.

(2) Kịch bản 2: Dịch Covid-19 kết thúc cuối quý II/2020

- Xuất khẩu: Ước tính quý II đạt kim ngạch 58,5 tỷ USD, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt 7,5 tỷ USD, giảm 17,3% so với cùng kỳ năm trước. Xuất khẩu sang Trung Quốc: các mặt hàng nông sản và nông sản chế biến, hàng lâm sản giảm khoảng trên 19,1%; hàng thủy sản giảm 21,9%.

- Nhập khẩu: Ước tính quý II đạt kim ngạch nhập khẩu đạt 61,0 tỷ USD, giảm 3,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc đạt kim ngạch 16 tỷ USD, giảm 17,6%. Ước tính nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng từ Trung Quốc giảm 10%; nguyên, nhiên, vật liệu giảm 24%; hàng tiêu dùng giảm khoảng 27%.

Trên cơ sở các kịch bản, các bộ, ngành cần có những giải pháp cụ thể để khắc phục khó khăn. Với vai trò là cơ quan nhà nước quản lý về xuất - nhập khẩu, Bộ Công Thương đã chỉ đạo các phòng giấy phép của Bộ tại các địa phương ưu tiên cấp giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) cho những lô hàng sẵn sàng chuyển sang hình thức chính ngạch. Đây là biện pháp cần thiết trong bối cảnh hàng đang bị “ùn tắc” tại cửa khẩu hiện nay.

Cùng với đó, Bộ Công Thương cũng nên khuyến nghị các doanh nghiệp logistics, đặc biệt là có kho lạnh, tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp kinh doanh nông sản thông qua việc ưu tiên bảo quản các mặt hàng nông sản đang gặp khó khăn trong việc xuất khẩu sang Trung Quốc, giảm chi phí lưu kho, lưu bãi, giảm phí vận chuyển, bốc xếp hàng hóa... Đề xuất các doanh nghiệp phân phối, trung tâm thương mại, siêu thị... tiếp tục hỗ trợ nông dân tiêu thụ các loại nông sản đang gặp khó khăn, như: thanh long, dưa hấu.

Thứ hai, mở rộng thị trường, tìm thị trường tiêu thụ mới, giảm phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Covid-19 là cơ hội để Việt Nam tìm ra những nguồn cung cấp vật liệu mới, cũng như đầu ra cho nông phẩm. Thời gian qua, một số doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có lĩnh vực dệt may, đang nghiên cứu nhập khẩu vật liệu từ Hàn Quốc, Ấn Độ, Bangladesh và Brazil để tránh phụ thuộc vào khối lượng nhập khẩu rất lớn từ Trung Quốc. Trong chuyến công du Ấn Độ vào giữa tháng 02/2020, Thứ trưởng Bộ Công Thương Việt Nam Cao Quốc Hùng đã đề nghị New Delhi tăng khối lượng nhập khẩu trái cây Việt Nam (nhãn, vải, mãng cầu, thanh long), cũng như cá nuôi và vải cho ngành dệt may. Từ 5 năm gần gây, trao đổi thương mại giữa hai nước đã tăng thêm gần 48%, đạt 13,7 tỷ USD trong năm 2019, nhưng Việt Nam vẫn chỉ là đối tác thương mại thứ 4 trong khối ASEAN của Ấn Độ.

Một tin vui cũng là cơ hội sáng cho các sản phẩm xuất khẩu Việt Nam, đó là Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA) chính thức được được Nghị viện châu Âu thông qua ngày 12/02/2020. Đây cũng được coi là một cú hích lớn cho xuất khẩu của Việt Nam, cũng như là cứu cánh cho tình hình diễn biến khó khăn hiện tại nước ta đang phải đối mặt trong quý đầu tiên của năm 2020. Theo Bộ Công Thương, EU là khu vực chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và châu Âu. Quan hệ thương mại Việt Nam - EU đã phát triển rất nhanh chóng và hiệu quả, từ năm 2000 đến năm 2019, kim ngạch quan hệ thương mại Việt Nam – EU đã tăng hơn 13,7 lần, từ mức 4,1 tỷ USD năm 2000 lên 56,45 tỷ USD năm 2019; trong đó xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng 14,8 lần (từ 2,8 tỷ USD lên 41,54 tỷ USD) và nhập khẩu vào Việt Nam từ EU tăng hơn 11,4 lần (1,3 tỷ USD lên 14,90 tỷ USD). Các thị trường có giá trị xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD trong năm 2019 là Hà Lan (6,88 tỷ USD); Đức (6,56 tỷ USD); Anh (5,76 tỷ USD); Pháp (3,76 tỷ USD); Italia (3,44 tỷ USD); Áo (3,27 tỷ USD); Tây Ban Nha (2,72 tỷ USD); Bỉ (2,55 tỷ USD); Ba Lan (1,50 tỷ USD); và Thụy Điển (1,18 tỷ USD).

Trong bối cảnh tình hình chính trị - an ninh thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, EVFTA vừa giúp Việt Nam có điều kiện phát huy nội lực để ứng phó, vừa giúp củng cố vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh. EVFTA là cơ hội để Việt Nam tăng thị phần tại thị trường châu Âu và là điều kiện để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh. Theo đó, 85% dòng thuế của Việt Nam giảm xuống còn 0% ngay sau khi có hiệu lực và 7 năm sau tỷ lệ dòng thuế được xóa bỏ nâng lên 99%. EVFTA là cơ hội lớn cho Việt Nam mở được cánh cửa lớn vào thị trường EU, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, như: thanh long, xoài, chôm chôm, bưởi, sầu riêng...

Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ gặp rất nhiều thách thức bởi EU là thị trường “khó tính nhất thế giới”. Việc bước qua được các rào cản thuế quan không có nghĩa là hàng hóa và dịch vụ của nước ta sẽ được thị trường EU chấp nhận. EU có nhiều quy định không chỉ liên quan đến tiêu chuẩn sản phẩm, mà cả đối với quy trình sản xuất ra sản phẩm đó (ví dụ không được dùng hải sản đánh bắt bất hợp pháp hay không dùng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên, mà chưa được phép). Hay các đòi hỏi về lao động, môi trường của EU cũng thuộc hàng cao nhất thế giới. Chính vì vậy, các hiệp hội và doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng vươn lên, nâng cao năng lực cạnh tranh mới có thể vượt qua được các thách thức, khai thác được các cơ hội do EVFTA đem lại.

Thứ ba, cần có sự chuyển biến trong nhận thức và chuyển đổi hoạt động chế biến, kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế, dù ngành chế biến nông sản của Việt Nam phát triển vượt bậc, nhưng năng lực chế biến sâu của một số ngành hàng nông, lâm, thủy sản còn gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng kịp thời việc tập trung thu mua, chế biến các sản phẩm nông sản trong nước hiện nay. Vì thế, trong thời gian tới, Việt Nam phải tái cơ cấu theo hướng chế biến sâu. Sản xuất theo chuỗi liên kết là giải pháp quyết định hiệu quả. Vì thế, việc đẩy mạnh tuyên truyền người dân liên kết thực hiện theo chuỗi giá trị sản xuất với tiêu thụ, xuất khẩu hàng hóa; nâng cao chất lượng sản đảm bảo an toàn thực phẩm, theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP; thực hiện truy xuất nguồn gốc nông sản; tăng sản lượng xuất khẩu bằng chính ngạch là biện pháp cần thiết không chỉ trong bối cảnh bệnh dịch, mà còn là biện pháp bảo đảm tính bền vững./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Báo cáo Đánh giá ảnh hưởng của dịch bệnh Corona đối với phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, Tài liệu phục vụ Họp thường trực Chính phủ ngày 12/02/2020

2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (2020). Báo cáo tác động của Covid-2019 đến với ngành nông nghiệp

3. Tổng cục Hải quan (2020). Số liệu xuất - nhập khẩu tháng 01/2020

4. Tổng cục Hải quan (2019). Tình hình xuất - nhập khẩu Việt Nam tháng 12 và cả năm 2019

5. Bộ Công Thương (2020). Quan hệ song phương Việt Nam - EU, truy cập từ http://evfta.moit.gov.vn/default.aspx?page=news&do=detail&id=fe64a293-2b69-4c37-b1e0-cdd062451769

(Đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 7 tháng 3/2020)