Mới đây, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã ký Nghị quyết số 58/NQ-CP ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030.

Bộ Chính trị đã thông qua Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 (Nghị quyết 50-NQ/TW khóa XII) về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 với mục tiêu tổng quát là "Hoàn thiện thể chế, chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài có tính cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, bảo vệ môi trường, giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Khắc phục căn bản những hạn chế, bất cập đang tồn tại trong xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện thể chế, chính sách về hợp tác đầu tư nước ngoài. Tạo lập môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh thuộc nhóm ASEAN 4 trước năm 2021, thuộc nhóm ASEAN 3 trước năm 2030".

Chính phủ ban hành Chương trình hành động để khắc phục khó khăn, nắm bắt cơ hội hợp tác đầu tư nước ngoài thời gian tới gồm 8 giải pháp lớn

Căn cứ các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tại Nghị quyết số 50-NQ/TW khóa XII; đánh giá chung xu thế chuyển dịch của dòng vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều thay đổi sâu sắc, cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ; tác động của xung đột thương mại giữa các nền kinh tế lớn; tác động suy thoái toàn cầu của đại dịch COVID-19, Chính phủ ban hành Chương trình hành động để khắc phục khó khăn, nắm bắt cơ hội hợp tác đầu tư nước ngoài thời gian tới gồm 8 giải pháp lớn:

1. Đổi mới, nâng cao nhận thức, tư duy và thống nhất trong hành động về đầu tư nước ngoài

- Tổ chức phổ biến, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng nội dung Nghị quyết 50-NQ/TW khoá XII đến các bộ, ngành, địa phương, tổ chức Đảng các cấp, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân; đặc biệt là các quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế.

- Phát huy thế mạnh của hoạt động đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm; thực hiện công khai, minh bạch và ngăn ngừa, khắc phục có hiệu quả những hạn chế của hoạt động đầu tư nước ngoài ở tất cả các ngành, lĩnh vực và địa phương.

- Chủ động nâng cao chất lượng thu hút và hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài tại địa phương, để trở thành một trong các thước đo đánh giá năng lực và trách nhiệm của người đứng đầu, đồng thời là chỉ số đánh giá xếp hạng hiệu quả đầu tư nước ngoài của địa phương.

2. Tăng cường ổn định chính trị xã hội và kinh tế vĩ mô; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế

Tập trung giữ vững ổn định xã hội, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô; tạo chuyển biến thực chất hơn trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.

3. Hoàn thiện thể chế, chính sách chung về đầu tư nước ngoài

Tại giải pháp này, Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Sửa đổi, bổ sung các quy định về thủ tục, điều kiện đầu tư, khái niệm về các hoạt động đầu tư, về danh mục địa bàn, lĩnh vực, đối tượng được áp dụng ưu đãi đầu tư trong các luật về đầu tư nước ngoài và các luật có liên quan để thống nhất trong thực hiện và bảo đảm phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam.

- Nghiên cứu bổ sung quy định “điều kiện về quốc phòng, an ninh” trong quá trình xem xét, cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (hoặc các văn bản có giá trị pháp lý tương đương) đối với dự án đầu tư mới và quá trình xem xét, chấp thuận đối với hoạt động đầu tư thông qua hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp.

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tư pháp để hoàn thiện đồng bộ các quy định của pháp luật về đầu tư, chứng khoán và quản lý ngoại hối theo hướng phân định rõ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp; thống nhất giữa pháp luật doanh nghiệp và quản lý ngoại hối về tài khoản mua bán, chuyển nhượng cổ phần.

- Nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng “vốn mỏng”, đầu tư “chui”, đầu tư “núp bóng”.

Bộ Tài chính được giao chủ trì nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng chuyển giá; phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để hoàn thiện đồng bộ các quy định của pháp luật về đầu tư, chứng khoán theo hướng phân định rõ giữa đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

4. Hoàn thiện thể chế, chính sách thu hút đầu tư

Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Soạn thảo Danh mục ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường và danh mục tiếp cận thị trường có điều kiện đối với nhà đầu tư nước ngoài phù hợp với các cam kết quốc tế để ban hành kèm theo Luật Đầu tư (sửa đổi) và/hoặc Nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư.

- Xây dựng các tiêu chí về đầu tư (về suất đầu tư, sử dụng lao động, công nghệ, môi trường, giá trị gia tăng nội địa, khả năng liên kết, lan tỏa, tham gia các chuỗi giá trị quốc tế, ...) để lựa chọn, ưu tiên thu hút đầu tư phù hợp với chiến lược, quy hoạch, định hướng phát triển ngành, lĩnh vực, địa bàn để ban hành kèm theo Nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư.

- Dự thảo quy định về không xem xét mở rộng, gia hạn hoạt động đối với những dự án sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thẩm dụng tài nguyên để bổ sung vào Luật Đầu tư (sửa đổi).

- Dự thảo quy định về cơ chế đánh giá an ninh và tiến hành rà soát an ninh đối với các dự án, hoạt động đầu tư nước ngoài có hoặc có thể ảnh hưởng đến an ninh quốc gia tại Luật Đầu tư để quy định trong Nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư.

- Dự thảo thể chế, chính sách ưu đãi vượt trội có tính cạnh tranh quốc tế để tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi nhằm thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao..., thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư, hình thành các chuỗi sản xuất, cung ứng có giá trị gia tăng, tham gia thị trường khu vực và toàn cầu, đặt trụ sở và thành lập các trung tâm nghiên cứu - phát triển (R&D), trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam để quy định trong Luật Đầu tư (sửa đổi).

- Nghiên cứu, hoàn thiện thể chế, chính sách cho các khu kinh tế, khu công nghiệp theo hướng xác định rõ trọng tâm phát triển và cơ chế, chính sách vượt trội phù hợp với đặc thù của từng mô hình, bảo đảm tính liên kết, đồng bộ với các khu vực khác để đề xuất Chính phủ xem xét, sửa đổi Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 về quản lý Khu công nghiệp và Khu kinh tế phù hợp với bối cảnh mới.

- Hoàn thiện khung pháp luật để đa dạng hóa và phát huy có hiệu quả mô hình hợp tác công - tư (PPP) vào đầu tư cơ sở hạ tầng; hoàn thiện các quy định về hình thức mua lại và sáp nhập (M&A) đối với các nhà đầu tư nước ngoài để quy định trong Luật Đầu tư (sửa đổi).

- Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư theo các tiêu chí như mức độ tham gia chuỗi giá trị, giá trị gia tăng nội địa, hợp phần sử dụng công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển (R&D), đổi mới sáng tạo, trách nhiệm xã hội... để bổ sung trong Luật Đầu tư (sửa đổi).

- Nghiên cứu đề xuất chính sách thực hiện thí điểm đối với các phương thức đầu tư, mô hình kinh doanh mới trên nền tảng kinh tế số để tận dụng cơ hội từ cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Bổ sung cơ chế khuyến khích đối với các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thực hiện tốt các nghĩa vụ, cam kết.

- Cơ chế áp dụng ưu đãi đầu tư gắn với việc đáp ứng các điều kiện, cam kết cụ thể và cơ chế hậu kiểm, yêu cầu bồi hoàn khi vi phạm các cam kết.

Chính phủ giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Cơ chế khuyến khích, ưu đãi thoả đáng để tăng liên kết giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút trong ngành công nghiệp; phát triển cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị, góp phần nâng cao giá trị gia tăng nội địa, sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu.

- Nâng cấp, hoàn thiện quy định của pháp luật về công nghiệp hỗ trợ.

- Đánh giá việc tuân thủ pháp luật cạnh tranh Việt Nam liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp vận hành nền tảng công nghệ... tại thị trường Việt Nam

- Rà soát, hoàn thiện các quy định về chống độc quyền, tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh phù hợp với thông lệ quốc tế

- Nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách bảo vệ thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế.

Bộ Khoa học và Công nghệ được Chính phủ giao chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Chính sách khuyến khích hợp tác, chuyển giao công nghệ và quản trị dựa trên cơ sở thoả thuận, tự nguyện cho doanh nghiệp Việt Nam.

- Hệ thống tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, bảo vệ môi trường, tài nguyên và tiết kiệm năng lượng theo hướng ưu tiên hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, khu vực.

- Nâng cấp, hoàn thiện quy định của pháp luật về khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.

- Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong nước kết nối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ, dần tiến tới tự chủ công nghệ và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

- Hoàn thiện pháp luật, chính sách nhằm thúc đẩy hiệu quả hoạt động của khu công nghệ cao.

Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp các bộ, ngành xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ cho lao động Việt Nam; sử dụng người lao động Việt Nam đã làm việc, tu nghiệp ở các quốc gia tiên tiến. Xây dựng và triển khai có hiệu quả, kịp thời việc đào tạo lao động có kỹ năng để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp.

Bộ Thông tin và Truyền thông được giao chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Cơ chế, chính sách phát triển doanh nghiệp công nghệ Việt Nam trên cơ sở hợp tác liên doanh với các tập đoàn công nghệ đa quốc gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông.

- Cơ chế khuyến khích, ưu đãi thỏa đáng tăng cường liên kết giữa các tập đoàn công nghệ đa quốc gia và doanh nghiệp công nghệ trong nước để phát triển hệ sinh thái số, góp phần tăng giá trị nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và nội dung do người Việt Nam tạo ra trong hệ sinh thái số toàn cầu.

Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tạo thuận lợi cho người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư tại Việt Nam; tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về thủ tục hành chính đối với hoạt động đầu tư tại Việt Nam của người Việt Nam ở nước ngoài.

5. Hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm bảo hộ và đề cao trách nhiệm và hợp tác của nhà đầu tư

Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Sửa đổi, bổ sung quy định bảo đảm quyền, nghĩa vụ, công nhận và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp về tài sản, quyền sở hữu trí tuệ, vốn đầu tư, thu nhập và lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư và chủ thể có liên quan, phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời có chế tài xử lý nghiêm các vi phạm quy định tại Luật Đầu tư (sửa đổi).

- Quy định rõ trong Luật Đầu tư (sửa đổi) về trách nhiệm của nhà đầu tư về bảo vệ môi trường và hợp tác cải thiện môi trường tốt hơn trong quá trình đầu tư, triển khai dự án và hoạt động của doanh nghiệp trong suốt thời gian thực hiện dự án theo quy định của pháp luật.

Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được giao chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành quy định về trách nhiệm và hợp tác của nhà đầu tư hạ tầng, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, trường mẫu giáo, cơ sở y tế, văn hoá, thể thao, ... phục vụ người lao động.

Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về lao động, việc làm và tiền lương, bảo đảm hài hoà lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động theo hướng minh bạch, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

- Điều chỉnh hợp lý khoảng cách lương tối thiểu giữa các vùng để hạn chế tập trung lao động tại các đô thị lớn, giảm áp lực về cơ sở hạ tầng.

6. Hoàn thiện thể chế chính sách quản lý, giám sát đầu tư

Chính phủ giao các bộ, ngành và địa phương:

- Nâng cao năng lực phân tích, dự báo của các cơ quan xây dựng, ban hành thể chế chính sách.

- Kịp thời trình cấp có thẩm quyền ban hành các quy định điều chỉnh các quan hệ kinh tế mới, các mô hình, phương thức kinh doanh mới... tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư và hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước.

- Đẩy mạnh phân công, phân cấp, ủy quyền và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước; áp dụng cơ chế một cửa, một cửa liên thông.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Xây dựng, bổ sung các quy định tại Nghị định hướng dẫn Luật Đầu tư (sửa đổi) về các nội dung: Cơ chế phòng ngừa và chủ động, kịp thời giải quyết vướng mắc, khiếu nại, khiếu kiện của nhà đầu tư, hạn chế tranh chấp đầu tư và nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước; Quy định để giải quyết có hiệu quả những vướng mắc đối với dự án có cam kết chuyển giao không bồi hoàn tài sản của nhà đầu tư nước ngoài cho Nhà nước hoặc bên Việt Nam sau khi kết thúc hoạt động; Hoàn thiện quy định cụ thể xử lý các trường hợp nhà đầu tư nước ngoài vắng mặt hoặc bỏ trốn trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam; Quy định về các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư nước ngoài về kinh tế, xã hội, môi trường và quốc phòng, an ninh...

- Sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 84/2015/NĐ-CP ngày 30 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ về giám sát, đánh giá đầu tư, trong đó quy định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc chủ trì, phối hợp quản lý, giám sát hoạt động đầu tư nước ngoài.

- Xây dựng tiêu chí đánh giá hiệu quả và hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu phục vụ đánh giá và quản lý hoạt động của các khu kinh tế, khu công nghiệp để sửa đổi Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22 tháng 5 năm 2018 về quản lý Khu công nghiệp và Khu kinh tế.

Chính phủ giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp các bộ, ngành thực hiện một số nhiệm vụ sau:

- Nghiên cứu hướng dẫn Luật Quản lý thuế và sửa đổi bổ sung các quy định về chống chuyển giá trong quản lý thuế; về xây dựng cơ sở dữ liệu, công bố thông tin... để kiểm soát, quản lý, chống chuyển giá, trốn thuế làm giảm nghĩa vụ thuế phải nộp tại Việt Nam của các doanh nghiệp có quan hệ liên kết và giao dịch liên kết.

- Xây dựng bộ máy chuyên trách chống chuyển giá, chống chuyển lợi nhuận đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thuế đối với doanh nghiệp có quan hệ liên kết và giao dịch liên kết.

- Xây dựng và thực hiện các chương trình hợp tác quốc tế về tăng cường năng lực quản lý thuế quốc tế, kiểm soát hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp liên kết.

- Phối hợp với các cơ quan, ban ngành xây dựng quy chế phối hợp để quản lý, kiểm tra nhằm ngăn ngừa và hạn chế tình trạng chuyển giá, chuyển lợi nhuận gây xói mòn nguồn thu ngân sách nhà nước.

Bộ Công Thương được giao chủ trì, phối hợp các bộ, ngành xây dựng, thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Hoàn thiện các quy định về chống độc quyền phù hợp với thông lệ quốc tế; về đáp ứng điều kiện tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh.

- Cơ chế, chính sách bảo vệ thị trường phân phối trong nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước phát triển và phù hợp với các cam kết quốc tế.

Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp các bộ, ngành rà soát, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định nâng cao chất lượng, hiệu quả các thiết chế phòng ngừa, giải quyết tranh chấp và thực thi phán quyết giải quyết tranh chấp.

7. Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư

Chính phủ giao các bộ, ngành và địa phương:

- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư.

- Tăng cường sự phối hợp, liên kết giữa trung ương với địa phương, giữa các vùng, giữa cơ quan quản lý nhà nước với các hiệp hội nghề nghiệp trong công tác xúc tiến đầu tư.

- Chủ động xúc tiến đầu tư có mục tiêu, trọng tâm, trọng điểm, gắn với các tiêu chí hợp tác đầu tư mới; tiếp tục duy trì các thị trường và đối tác truyền thống, đồng thời mở rộng thị trường, đối tác mới.

- Đa dạng hóa các hoạt động và phương thức xúc tiến đầu tư; chú trọng xúc tiến đầu tư tại chỗ với những dự án hợp tác cụ thể đã triển khai thành công.

- Đầu tư thoả đáng cho hoạt động xúc tiến. Ưu tiên thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư quốc gia, liên vùng, liên ngành.

- Công khai, minh bạch hệ thống thông tin kinh tế - xã hội, pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, thị trường, ...

- Tăng cường cơ chế đối thoại, đổi mới, mở rộng phương thức tiếp nhận kiến nghị, phản ánh của nhà đầu tư; xử lý dứt điểm, kịp thời các khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án đang thực hiện.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì, phối hợp các bộ, ngành và địa phương rà soát, cơ cấu lại hệ thống các cơ quan xúc tiến đầu tư hiện có (không thành lập mới) theo hướng chuyên nghiệp, độc lập, không chồng chéo, không trùng lặp với các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài; xem xét khả năng gắn kết với xúc tiến thương mại và du lịch một cách linh hoạt, phù hợp với yêu cầu và đặc thù của từng địa phương.

Bộ Ngoại giao chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đẩy mạnh xúc tiến đầu tư trong triển khai công tác ngoại giao kinh tế; tăng cường theo dõi, nghiên cứu xu hướng vận động của dòng vốn đầu tư quốc tế, chiến lược và chính sách đầu tư ra nước ngoài của các quốc gia và các tập đoàn lớn, đánh giá của quốc tế về môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam.

8. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài

Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành và địa phương:

- Thực hiện nghiêm pháp luật về đầu tư và pháp luật khác có liên quan đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, chủ động phòng tránh không để phát sinh khiếu kiện, tranh chấp quốc tế.

- Xử lý nghiêm tình trạng thực hiện thể chế, chính sách thiếu thống nhất giữa trung ương và địa phương, giữa các địa phương.

- Nghiêm cấm việc cấp, điều chỉnh, quản lý, đàm phán dự án đầu tư nước ngoài, ban hành quy định ưu đãi, hỗ trợ đầu tư... trái thẩm quyền, trái quy định pháp luật.

- Việc đàm phán, thoả thuận các cam kết bảo lãnh chính phủ (GGU), ký hợp đồng BOT, bao tiêu sản phẩm... phải thực hiện đúng quy định pháp luật.

- Chấn chỉnh công tác quản lý, triển khai dự án đầu tư; phải bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội - môi trường, phù hợp quy hoạch, theo đúng các tiêu chí lựa chọn, sàng lọc dự án... Bảo đảm chặt chẽ về quy trình, thủ tục cấp, điều chỉnh, thu hồi, chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư nước ngoài theo đúng quy định pháp luật; bảo đảm không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự trong giải quyết các khiếu nại, khiếu kiện về đầu tư.

- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra gắn với nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương và người đứng đầu trong chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước liên quan tới đầu tư nước ngoài.

- Xử lý dứt điểm các dự án gây ô nhiễm môi trường, sử dụng đất không hiệu quả, kinh doanh thua lỗ nhiều năm, dự án không thực hiện đúng cam kết. Phòng ngừa, giải quyết sớm, có hiệu quả các tranh chấp liên quan đến đầu tư nước ngoài.

- Chú trọng nâng cao năng lực và đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài ở các bộ, ngành và địa phương phù hợp với những yêu cầu, nhiệm vụ mới về quản lý đầu tư nước ngoài.

- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu để kết nối với Hệ thống thông tin quốc gia về đầu tư nước ngoài.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì, phối hợp các bộ, ngành xây dựng, thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và các địa phương gắn với kiểm tra, giám sát trong hoạt động quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài.

- Hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quốc gia về đầu tư đồng bộ, liên thông với các lĩnh vực lao động, đất đai, thuế, hải quan, tín dụng, ngoại hối... và với các địa phương. Nâng cao chất lượng công tác thống kê, bảo đảm kịp thời, đầy đủ, chính xác và phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Phối hợp chặt chẽ với các hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bình chọn, vinh danh các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài; định kỳ bình chọn, vinh danh các nhà đầu tư nước ngoài tiêu biểu.

Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ được giao; khẩn trương trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật liên quan để thực hiện Nghị quyết theo quy định.

Các bộ, ngành thường xuyên cập nhật, tổng hợp số liệu phân tích đánh giá tình hình công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài theo chuyên ngành; tăng cường rà soát, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật chuyên ngành do bộ, ngành mình quản lý nhằm tháo gỡ khó khăn cho các dự án đầu tư nước ngoài và kịp thời đề xuất điều chỉnh chính sách.

Người đứng đầu các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện nhiệm vụ của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân. Bám sát tình hình thực tế, chủ động theo dõi, đánh giá để có biện pháp xử lý linh hoạt, kịp thời hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền những giải pháp chỉ đạo, điều hành bảo đảm kịp thời, hiệu quả. Định kỳ hàng năm (trước ngày 31 tháng 3) báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư về kết quả thực hiện để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 30 tháng 6.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan rà soát, kiểm tra, giám sát tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết; hàng năm tổng hợp, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về tình hình, kết quả triển khai các nội dung nêu tại Nghị quyết này./.