Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vừa công bố Dự thảo Tờ trình Chính phủ về Nghị định quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao động năm 2016.

Tăng tối đa 400.000 đồng so với năm 2015

Nêu rõ sự cần thiết phải tăng lương tối thiểu vùng, Dự thảo nhấn mạnh, theo tính toán thì mức lương tối thiểu vùng năm 2015 quy định tại Nghị định số 103/2014/NĐ-CP ngày 11/11/2014 của Chính phủ mới chỉ đáp ứng khoảng từ 82%-84% nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ tùy theo từng vùng.

Do vậy, để bảo đảm tiền lương thực tế và từng bước bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động là cần thiết, Dự thảo, mức lương tối thiểu vùng năm 2016 áp dụng đối với doanh nghiệp được chia làm 4 mức: Mức 3,5 triệu đồng/tháng, áp dụng đối với vùng I; mức 3,1 triệu đồng/tháng, áp dụng đối với vùng II; mức 2,7 triệu đồng/tháng, áp dụng đối với vùng III và mức 2,4 triệu đồng/tháng áp dụng đối với vùng IV. Mức lương tối thiểu này tăng từ 250.000-400.000 đồng so với hiện hành năm 2015, tương ứng tăng 11,6%-12,9% tùy theo từng vùng.

Dự thảo nêu rõ,cơ bản giữ nguyên 4 vùng và danh mục địa bàn ở 4 vùng theo quy định tại Nghị định số 103/2014/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ. Việc phân theo 4 vùng để áp dụng mức lương tối thiểu về cơ bản phù hợp với thực tế phát triển kinh tế - xã hội, thị trường lao động của các địa phương.

Tuy nhiên, Dự thảo có điều chỉnh, bổ sung tên một số địa bàn theo các nghị quyết của Chính phủ về thành lập thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh, cụ thể: Điều chỉnh phân vùng từ vùng IV lên vùng III theo đề nghị của các địa phương, gồm: thị xã Quảng Yên (Quảng Ninh); thị xã Giá Rai (Bạc Liêu); thị xã Cai Lậy và huyện Chợ Gạo (Tiền Giang); thị xã Vĩnh Châu và thị xã Ngã Năm (Sóc Trăng).

Đã có sự cân nhắc hài hòa lợi ích các bên

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, mức lương tối thiểu trên được tính toán dựa trên cơ sở bù đủ trượt giá sinh hoạt năm 2014 dự kiến khoảng 4%-5% để bảo đảm tiền lương thực tế cho người lao động. Đồng thời, cải thiện theo mức tăng năng suất lao động xã hội khoảng 3%-3,5% và điều chỉnh tăng thêm ở mức vừa phải (khoảng 4%-5%) để thực hiện lộ trình điều chỉnh bảo đảm nhu cầu tối thiểu của người lao động. Nếu thực hiện theo phương án nêu trên thì đáp ứng được khoảng từ 87%-90% nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ tùy theo từng vùng.

Mặt khác, khi thực hiện phương án nêu trên cũng không ảnh hưởng quá lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, do (i) mức tiền lương thấp nhất các doanh nghiệp thực tế đang trả cho người lao động nhìn chung cao hơn mức lương tối thiểu vùng năm 2015 (vùng I là 3,5 triệu đồng/tháng, vùng II là 3,39 triệu đồng/tháng, vùng III là 3,14 triệu đồng/tháng và vùng IV là 2,85 triệu đồng/tháng); (ii) doanh nghiệp chủ yếu phải tăng thêm phần đóng bảo hiểm xã hội (dự báo chi phí sản xuất tính bình quân chung của các doanh nghiệp tăng khoảng 0,46%, trong đó ngành dệt may tăng khoảng 2,77% và ngành giày da tăng khoảng 2,71%).