Đây là nhận định của TS. Nguyễn Đình Cung - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) trong Hội thảo “Cải cách độc quyền nhà nước trong các ngành công nghiệp mạng lưới” được CIEM phối hợp với Aus4Reform (chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam) tổ chức vào sáng 6/7 tại Hà Nội.

TS. Nguyễn Đình Cung: "Cụm từ “đang chuyển đổi sang tinh tế thị trường” đang được lạm dụng..."

Độc quyền nhà nước toàn ngành đã không tạo động lực phát triển

Báo cáo nghiên cứu của nhóm nghiên cứu CIEM phối hợp với Aus4Reform cho biết, do tính chất độc quyền tự nhiên, nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước, nên các lợi ích công cộng khó có thể được đảm bảo. Chính vì vậy, nhà nước thường quan tâm đặc biệt tới các ngành công nghiệp mạng lưới.

Trước đây, sự quan tâm đặc biệt của nhà nước đối với các ngành công nghiệp mạng lưới có tính độc quyền tự nhiên được thể hiện qua độc quyền nhà nước ở tất cả các khâu, công đoạn của ngành.

Trong thời gian dài, các ngành công nghiệp mạng lưới thuộc độc quyền nhà nước (ở tầm quốc gia) và được bảo vệ khỏi sự cạnh tranh cả trong nước lẫn nước ngoài. Độc quyền nhà nước thường được trao cho các doanh nghiệp nhà nước nắm giữ.

Thế nhưng “độc quyền nhà nước toàn ngành đã không tạo động lực phát triển, không tạo ra thị trường cạnh tranh lành mạnh, hạn chế sự tham gia của các thành phần kinh tế vào các khâu, công đoạn không có tính chất độc quyền tự nhiên”, thay mặt nhóm nghiên cứu TS. Nguyễn Thị Luyến – Trưởng ban Ban Thể chế kinh tế (CIEM) cho biết.

Bà Luyến cũng cho biết, hệ thống cơ chế, chính sách nhằm hạn chế độc quyền kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh đã được ban hành khá đầy đủ, tạo cơ sở cho cải cách. Tuy nhiên, kết quả cải cách và hiện trạng độc quyền nhà nước của mỗi ngành khác nhau.

Cụ thể, ngành viễn thông là minh chứng rõ nhất là cải cách độc quyền nhà nước trong ngành công nghiệp mạng lưới, góp phần giảm giá và nâng cao chất lượng dịch vụ.

Tương tự như vậy là ngành hàng không. Từ khi xóa bỏ độc quyền nhà nước trong vận tải hàng không, nhiều hãng hàng không mới ra đời. Các hãng hàng không đã phát triển tạo ra một thị trường cạnh tranh mạnh mẽ, góp phần nâng cao chất lượng nhưng giá lại rẻ hơn.

Tuy nhiên, trong nội bộ ngành hàng không, Nhà nước vẫn độc quyền quản lý và khai thác cảng hàng không. Toàn bộ 22 sân bay thương mại đang do DNNN quản lý và khai thác. nên giá dịch vụ cảng không hợp lý, giữa các hãng hàng không vẫn có sự chưa công bằng khi tiếp cận tới hạ tầng cảng hàng không.

Ngay cả khi đã cải cách độc quyền nhà nước và mở cửa thị trường nhưng thị trường vẫn bị thống lĩnh bởi các DNNN đã tồn tại từ trước. Trong ngành viễn thông, tổng thị phần của VNPT, Mobifone và Viettel (3 DNNN) vẫn duy trì vị trí thống lĩnh thị trường, có sức mạnh thị trường rất lớn. Tập đoàn Điện lực Việt Nam đang có vị trí thống lĩnh thị trường. Tập đoàn Điện lực Việt Nam chi phối trong hoạt động phát điện, độc quyền trong quản lý hạ tầng mạng truyền tải điện và phân phối điện.

Hơn nữa, không có sự chắc chắn về phí truy cập, năng lực truyền tải điện và tất cả người tiêu dùng đều có hợp đồng dài hạn với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (thông qua hệ thống các công ty con, cháu). Đây là vấn đề đòi hỏi phải quan tâm khi tiếp tục thực hiện cải cách độc quyền nhà nước trong ngành điện, tạo điều kiện cho thiết lập một thị trường cạnh tranh.

Trong ngành đường sắt, chưa có sự độc lập, tách bạch giữa hạ tầng đường sắt với các hoạt động hạ nguồn (kinh doanh vận tải đường sắt) bởi vì thực tế Tổng công ty Đường sắt Việt Nam vẫn quản lý thống nhất.

“Hệ thống cơ chế, chính sách nhằm hạn chế độc quyền kinh doanh, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh đã được ban hành khá đầy đủ, tạo cơ sở cho cải cách. Tuy nhiên, kết quả cải cách và hiện trạng độc quyền nhà nước của mỗi ngành khác nhau”, bà Nguyễn Thị Luyến cho biết. Việc tách bạch vận hành hạ tầng với hoạt động hạ nguồn chưa thực hiện thực sự ở đường sắt và điện.

Vậy phải làm thế nào?

Nghiên cứu của CIEM và Aus4Reform kết luận: Nhà nước chỉ nắm giữ độc quyền ở những khâu, công đoạn có tính độc quyền tự nhiên để đảm bảo quyền tiếp cận bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp tới các hàng hóa, dịch vụ đặc biệt này.

Thay mặt nhóm nghiên cứu bà Luyến cho rằng, cần tiếp tục cải cách và lưu ý xác định khâu trọng tâm cần duy trì sở hữu nhà nước; có cách thức quản lý, giám sát phù hợp, tránh chuyển từ độc quyền nhà nước sang thành độc quyền doanh nghiệp.

Đối với từng ngành, nhóm nghiên cứu đã có kiến nghị riêng. Như với ngành đường sắt, cần tiếp tục thực hiện tái cơ cấu Tổng công ty Đường sắt Việt Nam; thành lập cơ quan độc lập quản lý hạ tầng đường sắt, có cơ chế tiếp cận, kết nối hạ tầng mạng đường sắt công bằng, đảm bảo cho các chủ tàu mới tham gia kinh doanh vận tải đường sắt cạnh tranh.

Trong lĩnh vực hàng không, những khuyến nghị đáng lưu ý bao gồm đảm bảo khả năng tiếp cận cảng hàng không công bằng, bình đẳng cho các hãng hàng không; thực hiện giám sát giá tiếp cận các dịch vụ cảng hàng không; ban hành cơ chế kiểm soát đơn vị quản lý các cảng hàng không; giảm vị thế độc quyền của Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) tại các sân bay…

Trong khi đó, đối với ngành viễn thông, cơ quan điều tiết ngành được đề nghị thực hiện giám sát, ngăn chặn tình trạng liên kết độc quyền, thống lĩnh thị trường..

Nhấn mạnh rằng, dù chúng ta đã có nỗ lực nhất định, nhưng thực chất lại biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp, mà không có sự tham gia giám sát của xã hội, TS. Lê Đăng Doanh – nguyên Viện trưởng CIEM đề nghị phải thành lập cơ quan giám sát về cạnh tranh. Vị chuyên gia này khẳng định, nếu không có cơ quan đủ quyền lực giám sát độc quyền thì rất khó giảm độc quyền kinh doanh nhà nước cho dù Luật Cạnh tranh đã có quy định.

Đồng tình với khuyến nghị của nhóm nghiên cứu, song bà Phạm Chi Lan – nguyên Phó Chủ tịch VCCI, bố sung rằng, các quy định về cạnh tranh hiện nay nhiều nhưng không có chế tài.

“Độc quyền bị kéo dài chậm bị phát hiện khi bị phát hiện thì bất chấp nó gây thiệt cho người tiêu dùng và nền kinh tế nhưng cũng vẫn được bao che”, bà Lan chỉ rõ.

Trên cơ sở đó, bà Lan cho rằng, cần đẩy nhanh tiến độ cải cách chống độc quyền nhà nước với lộ trình và mức độ đã cam kết với quốc tế.

Chia sẻ với hội thảo với sự thẳng thắn thường trực, TS. Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng CIEM chua xót mà rằng: “Cứ mỗi khi gặp vấn đề chúng ta lại nói “đang trong quá trình chuyển đổi đến kinh tế thị trường”, cụm từ này đã trở thành cái cớ, là cái thứ người ta vin vào để biện minh cho những trì trệ, cho những cái làm rất dở”.

Do đó, ông cho rằng, phải quyết liệt hơn, và làm sao 5 năm sau không còn nghe thấy cụm từ “đang chuyển đổi” này nữa./.