FDI nên so sánh trong cả giai đoạn

9 tháng đầu năm, vốn FDI vào Việt Nam giảm 25% so với cùng kỳ năm ngoái, nhiều dự án triệu USD, tỷ USD bỏ hoang, có dự án bị thu hồi giấy phép. Trước vấn đề này, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh trần tình, đúng là so với cùng kỳ năm trước, chúng ta hụt hơn khoảng 25%, tuy nhiên chúng ta không nên so sánh thu hút FDI của cùng kỳ năm nay so với cùng kỳ năm trước, thế giới họ cũng không làm vậy. Bởi vì, thu hút FDI là việc "bắc nước chờ gạo người". Có nghĩa là chúng ta làm hết mình để tạo ra một môi trường đầu tư tốt nhất, nhưng việc quyết định đầu nó không chỉ phụ thuộc vào sự nỗ lực, mong muốn của Việt Nam. Các nhà đầu tư nước ngoài phải chịu rất nhiều tác động, đặc biệt là tác động của tập đoàn họ ở chính nước sở tại, như việc bị vỡ nợ, bị sa lầy vào những khó khăn kinh tế ở nước sở tại, cho nên họ không đủ khả năng vươn ra ngoài để đầu tư nữa mà phải co cụm lại. Cho nên có thể nói, vấn đề thu hút FDI phụ thuộc nhiều yếu tố, cần đánh giá theo một giai đoạn khoảng 5 năm thì phù hợp hơn.

Bộ trưởng Vinh đặt câu hỏi, chẳng hạn năm 2013, tại sao chúng ta lại thu hút FDI vọt lên tới 22 tỷ USD? Bởi có những dự án rất lớn người ta đã nghiên cứu nhiều năm rồi, đến thời điểm năm 2013 mới đồng loạt xin cấp giấy chứng nhận đầu tư như: Lọc hóa dầu Nghi Sơn, các dự án của Samsung… Năm nay, chúng ta không có những dự án như vậy mà lại so sánh của năm nay với năm ngoái thì chắc chắn sẽ bị sụt giảm.

Bộ trưởng Vinh nhắc lại câu chuyện cách đây nhiều năm, chúng ta có dự án của các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (UAE) xin làm đặc khu kinh tế của Phú Yên, nhưng dự án này không thực hiện được do khủng hoảng kinh tế thế giới và các tập đoàn của UAE không thực hiện được vì bị suy thoái ở nước họ. Ngoài ra cũng có một số dự án ảo do những nhà môi giới quốc tế người ta làm vì mục đích khác, không thực chất có năng lực. Cho nên có thể nói, những dự án này không phụ thuộc vào nguyên nhân chúng ta, mà phụ thuộc cả ở nước họ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng có văn bản nhắc nhở các địa phương phải thật thận trọng khi tiếp cận các dự án lớn và phải báo cáo Chính phủ.

Bộ trưởng cho biết, việc các dự án này gây lãng phí cũng có nhưng mà không nhiều, chủ yếu trên chủ trương thôi, chứ chưa giải phóng mặt bằng gì cả nên việc để đất hoang trong mấy dự án ở Phú Yên là không có.

Bộ trưởng Vinh tin tưởng rằng, năm nay có thể đạt mức thu hút FDI khoảng 15-16 tỷ USD (theo đúng kế hoạch từ đầu năm).

Làm thế nào để xóa cơ chế xin cho trong đầu tư công?

Bộ trưởng cho biết, nhu cầu đầu tư của các địa phương và các bộ, ngành là rất lớn, trong khi ngân sách của chúng ta rất hạn chế, tạo ra áp lực lớn. Khi làm dự án thì phải biết tiền ở đâu để làm, không thể ký quyết định đầu tư dự án rồi trông chờ đi "chạy".

Bộ trưởng cho rằng, để giải tỏa việc này và làm cho hiệu quả hơn thì điều đầu tiên là chúng ta phải xem có bao nhiêu tiền trong ngân sách của địa phương và của trung ương. Khi đó sẽ lựa chọn những dự án nào quan trọng bậc nhất mà nó mang tác động lan tỏa cho cả vùng và cả nước để đầu tư thì tiền ít mới đầu tư hiệu quả. Trước khi ký quyết định để đàu tư một dự án, thì phải xem lại chủ trương xem cái đó có hiệu quả thực sự không và đã đầu tư thì phải tập trung trong một thời gian quy định để mà hoàn thành công trình, không kéo dài. Những điều đó là tiền đề đảm bảo cho dự án có hiệu quả.

Theo Bộ trưởng Vinh, một trong những đổi mới để công khai minh bạch, đồng thời để sử dụng hiệu quả hơn nguồn lực chính là kế hoạch đầu tư công trung hạn. Chúng ta phải tính toán và dự báo được nguồn lực chúng ta có trong 5 năm tới, và phải gắn nguồn lực này với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, cũng như của một địa phương, bộ ngành.

Chính phủ cũng phải công bố kế hoạch giao vốn trong 5 năm cho các địa phương, chẳng hạn thông báo một tỉnh A năm tới có từng nay tiền thì chắc họ sẽ không cần phải chạy chọt mà sẽ sắp xếp xem nên làm thế nào và như thế nào sẽ có hiệu quả. Do đó, vấn đề ở đây là minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế. Quốc tế đã làm như vậy, vốn ODA chúng ta cũng phải làm dự toán bao nhiêu tiền để nhà tài trợ mà biết cung cấp đủ vốn. Đây là biện pháp căn cơ nhất, nền tảng nhất để hạn chế việc xin-cho và nhũng nhiễu trong lĩnh vực này.

Lúc đó, các nguồn vốn kể cả của ngân sách trung ương hay địa phương sẽ được quản lý chặt chẽ hơn và minh bạch, hiệu quả hơn. Bộ trưởng Vinh khẳng định niềm tin của mình rằng Việt Nam sẽ làm được điều này trong thời gian tới.

Năm 2016, số liệu GDP sẽ "chuẩn" hơn?

Trong khi GDP cả nước chỉ có 5,8%, thì nghịch lý là tỉnh nào cũng báo cáo GDP tăng từ 9-14%. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cũng thừa nhận đúng là có thực tế này và cho rằng, trên thế giới không ai giống Việt Nam. Bởi vì, tất cả câc quốc gia tuyệt đại đa số không tính GDP cho các địa phương mà chỉ tính GDP chung cho quốc gia thôi, rất ít nước tính GDP cho vùng hoặc cho địa phương.

Bộ trưởng khẳng định, phương pháp tính GDP của các địa phương (hay còn gọi là GRDP) theo chung một cách tính mà Liên hợp quốc hướng dẫn, không có gì khác biệt so với cách tính GDP của Trung ương. Tuy nhiên có mấy vấn đề khiến nó sai:

Thứ nhất, tính GDP của các địa phương không chính xác bởi vì có rất nhiều khoản tính trùng và tính xót. Bởi, có nhiều mục trong tài khoản quốc gia phải tính theo phạm vi toàn quốc. Chẳng hạn trong ngành ngân hàng thì người ta không thể phân bổ chi phí chung mà chia cho 63 tỉnh, thành cho nên bị trùng, hay như thuế, bảo hiểm...

Thứ hai, số liệu đầu vào của chúng ta cũng không chính xác ở các địa phương vì nhiều nguyên nhân. Trong đó có cả nguyên là trong kế hoạch, nghị quyết đại hội các cấp của từng tỉnh xác định phải tăng trưởng từng này, tăng trưởng từng kia, nhưng đến lúc không có đủ điều kiện thực hiện mục tiêu đó thì các con số kế hoạch là các con số áp lực.

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh chia sẻ quan điểm, dần dần chúng ta sẽ chỉ tính GDP của quốc gia thôi. Còn nếu như vẫn muốn có các chỉ số để đánh giá tăng trưởng của địa phương, thì bắt đầu từ năm 2016, Thủ tướng đã đồng ý đề nghị theo đề án của Bộ Kế hoạch và Đầu tư là số liệu đầu vào do các địa phương cung cấp, còn Tổng cục thống kê Trung ương sẽ tính GDP cho các địa phương. Như vậy, việc phân bổ các chi phí mang tính toàn quốc gia sẽ được sát hơn. Khi đó, chúng ta chỉ có con số tăng trưởng của toàn quốc thôi, còn con số ở các địa phương chỉ mang tính tương đối, nhưng dù sao cũng khác hơn rất nhiều./.