Vùng Bắc Bộ cần làm rõ hơn đột phá về tăng trưởng xanh
Đó là nhấn mạnh của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị phát triển Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ vừa diễn ra tại Hưng Yên, sáng ngày 25/6/2019.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị phát triển Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Những kết quả tích cực
Tại Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, trong giai đoạn 2016-2018 và 5 tháng đầu năm 2019, Vùng KTTĐ Bắc Bộ tiếp tục đạt được kết quả rất tích cực, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu đề ra tại Quyết định số 198/QĐ-TTg ngày 25/01/2014 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, định hướng đến 2030.
GRDP bình quân đầu người của Bắc Bộ Vùng năm 2018 gấp 1,86 lần mức trung bình cả nước.
Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân của Vùng trong 03 năm qua đạt 9,08%/năm, cao nhất trong các vùng KTTĐ, trong đó, nổi bật nhất là Hải Phòng đạt 14,57%/năm.
Tổng GRDP của vùng năm 2018 chiếm tỷ trọng 31,73% GDP của cả nước, đứng thứ hai, sau vùng KTTĐ phía Nam.
Trong đó, Hà Nội tiếp tục khẳng định vai trò đầu tàu với tỷ trọng đóng góp đạt gần 17% GDP cả nước. GRDP bình quân đầu người của Vùng năm 2018 đạt 4.813 USD, gấp 1,86 lần mức trung bình cả nước.
Cơ cấu kinh tế dịch chuyển tích cực, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản giảm từ 3,98% xuống còn 3,71%, vượt mục tiêu đề ra tại Quyết định số 198/QĐ-TTg.
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, chuyển dịch theo hướng nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Đến hết năm 2018, toàn vùng có gần 77% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, cao nhất trong 4 Vùng KTTĐ và cao hơn tỷ lệ bình quân của cả nước.
Công nghiệp duy trì vai trò trụ cột trong tăng trưởng của vùng, với nhiều dự án FDI quy mô lớn của các tập đoàn nổi tiếng, như: Samsung, LG, Microsoft, Kyocera, Toyota, Honda, Ford…, trong đó, công nghiệp điện, điện tử, điện thoại di động, lắp ráp ô tô, đóng tàu, dệt may giữ vai trò chủ đạo, công nghiệp phụ trợ đã có bước phát triển khá.
Các ngành dịch vụ tăng trưởng mạnh mẽ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân 13,2%/năm, kim ngạch xuất khẩu của vùng tăng bình quân 25,6%/năm, chiếm tỷ trọng 32% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, vượt trước 2 năm so với mục tiêu đề ra tại Quyết định 198/QĐ-TTg. Trong đó, Bắc Ninh là địa phương dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu (đạt 90,5 tỷ USD, chiếm hơn 48% toàn vùng, với sự đóng góp chủ yếu của dự án Samsung hoạt động trên địa bàn); dịch vụ Logistics tăng trưởng nhanh, hình thành 27 trung tâm Logistics trong vùng, chiếm 55% tổng số trung tâm Logistics cả nước.
Thu ngân sách nhà nước của các địa phương trong Vùng đều đạt và vượt dự toán, trong giai đoạn 2016-2018 đạt 1.170 nghìn tỷ đồng, tăng bình quân 11,2%/năm, chiếm 31,2% tổng số thu ngân sách cả nước.
Từ năm 2017, tất cả 7 địa phương trong Vùng đều có tỷ lệ điều tiết về ngân sách trung ương, đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách của cả nước, trong đó, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh luôn nằm trong nhóm 5 tỉnh, thành phố có số thu lớn nhất nước, riêng Hà Nội chiếm hơn 19% tổng thu ngân sách cả nước và chiếm hơn 54% tổng thu ngân sách của Vùng.
Môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện, trong đó, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội, Bắc Ninh luôn có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) nằm trong nhóm cao của cả nước, Quảng Ninh giữ vị trí đứng đầu cả nước trong 2 năm liên tiếp (2017, 2018).
Nhờ đó, số lượng doanh nghiệp của Vùng tăng trưởng mạnh, từ 146 nghìn năm 2016 lên 204 nghìn doanh nghiệp năm 2018, chiếm 28,6% số doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) phát triển bứt phá, với khoảng 7.000 dự án cấp mới và tăng thêm vốn, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 32,1 tỷ USD, bằng 33% về số dự án và 27% tổng vốn đầu tư đăng ký so với cả nước.
Đặc biệt, trong năm 2018, Hà Nội thu hút được 7,5 tỷ USD vốn FDI, lần đầu tiên dẫn đầu cả nước về thu hút vốn FDI.
Thủ tướng đánh giá cao Đảng bộ, chính quyền các địa phương trong vùng KTTĐ Bắc Bộ về kết quả đạt được thời gian qua. Vùng đóng góp hơn 32% GDP cả nước. Trong 14 tỉnh, thành phố có điều tiết ngân sách về Trung ương thì có toàn bộ các địa phương của vùng.
Các hoạt động hợp tác liên kết nội vùng chưa thật sự chủ động, hiệu quả
Mặc dù đánh giá cao những kết quả đạt được, song với tinh thần “nói bất cập, tồn tại nhiều hơn để thấy mình đang ở đâu, để sửa chữa”, phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ, khu vực dịch vụ hiện đang là lợi thế nhưng tốc độ tăng trưởng chưa cao, chưa bền vững; tỉ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của vùng có xu hướng giảm (từ gần 51% năm 2016 xuống còn khoảng 47% năm 2018).
Sản xuất nông nghiệp nhìn chung còn manh mún, nhỏ lẻ vẫn là phổ biến, liên doanh, liên kết trong sản xuất, kinh doanh còn rất yếu; trình độ canh tác, công nghệ sơ chế, chế biến còn lạc hậu… Tình trạng ô nhiễm môi trường ở đô thị, nông thôn, lưu vực sông, làng nghề, cụm công nghiệp… rất phức tạp. Việc di dân vào Hà Nội đã gây quá tải kết cấu hạ tầng.
Khu vực công nghiệp chủ yếu phát triển chiều rộng, đóng góp của khoa học kỹ thuật, năng suất các yếu tố tổng hợp còn hạn chế. Một số địa phương vẫn tập trung vào khai thác tài nguyên, gia công. Các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, logistics, dịch vụ cao cấp phát triển chưa tương xứng.
Việc gắn kết giữa các dự án FDI và doanh nghiệp trong nước tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế, chưa có tính chất lan tỏa. Phần lớn (gần 65% số vốn) các dự án FDI thường tập trung vào các lĩnh vực, các ngành có nhiều ưu đãi đầu tư, nhân công giá rẻ.
Phát triển các dự án công nghiệp tập trung chủ yếu tại Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh (với các dự án lớn của Samsung, LG, Microsoft, Canon...) và mới dừng lại ở gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp.
Các hoạt động hợp tác liên kết nội vùng và giữa các vùng chưa thật sự chủ động, hiệu quả. Chất lượng tăng trưởng và mức độ lan tỏa của vùng KTTĐ chưa thực sự rõ nét. Chỉ số PCI, PAPI ở một số địa phương còn thấp.
Cấu trúc không gian phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ còn hình thành thụ động, chưa rõ nét theo định hướng (như Hà Nội chậm phát triển các đô thị vệ tinh Sơn Tây, Xuân Mai; Hải Phòng và Quảng Ninh được quy hoạch là khu du lịch mang tầm cỡ vùng và quốc gia nhưng chưa được tập trung đầu tư…).
Toàn cảnh hội nghị/ Ảnh: mpi.gov.vn
Sẽ ban hành Chỉ thị về phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ
Về định hướng phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh tinh thần, phải tiếp tục giữ vững và phát huy hơn nữa vai trò của vùng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật của cả nước; phấn đấu cùng vùng KTTĐ Nam Bộ là một trong hai đầu tàu, trung tâm kinh tế lớn nhất và phát triển năng động của cả nước.
Về định hướng phát triển và xác định ngành nghề trụ cột ưu tiên, quy hoạch phân bổ không gian phù hợp hơn. Danh mục dự án hạ tầng liên kết vùng, cả nội vùng và kết cấu ngoại vùng cần làm rõ hơn.
Cần có cơ chế thu hút đầu tư từ Trung ương, địa phương, đầu tư xã hội và đặc biệt là đầu tư tư nhân.
Cần có thể chế liên kết vùng, cơ chế phối hợp vùng; liên kết trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ rõ nét hơn.
Mục tiêu phát triển của vùng phải là đi đầu về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đi đầu trong 3 đột phá chiến lược và đặc biệt là cơ cấu lại nền kinh tế trên tinh thần phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường.
Làm rõ hơn mô hình tăng trưởng, đó là kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Làm tốt hơn dịch vụ logistics.
“Chúng ta cần xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung trong cuộc cách mạng 4.0, Thủ tướng nói. Là vùng có dân trí cao, nên cần phát huy giá trị văn hóa, con người, coi đây là thế mạnh, tiềm năng cần khơi dậy”, Thủ tướng nhận định.
Vùng cần làm rõ hơn đột phá về tăng trưởng xanh như công nghệ cao, môi trường tốt, “vùng có phải đi đầu trong việc không có rác thải nhựa hay không?”. Thủ tướng hoan nghênh việc Hội nghị sử dụng chai nước thủy tinh thay cho chai nhựa.
Quan tâm phát triển đô thị là một động lực tăng trưởng, đồng thời tiếp tục xây dựng nông thôn mới. đẩy mạnh thực hiện các giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, chống tham nhũng, lãng phí. Thủ tướng nhấn mạnh, vùng không chỉ lo vấn đề kinh tế mà cần quan tâm đến cả vấn đề xã hội, an toàn cho người dân.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ ngành và các địa phương Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cần thực hiện một số nhiệm vụ, trong đó giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan tổng hợp các ý kiến của các đại biểu tham dự hội nghị, các giải pháp xây dựng Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về phát triển vùng KTTĐ Bắc Bộ, để các bộ, ngành, địa phương có cơ sở tổ chức thực hiện đảm bảo tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng đảm bảo chất lượng theo hướng tích hợp các quy hoạch quy định tại Luật quy hoạch. Trước mắt, sớm hướng dẫn các địa phương chuyển tiếp thực hiện các quy hoạch hiện hành, xác định các khó khăn, vướng mắc để kịp thời báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý; chấm dứt sự thiếu thống nhất giữa các địa phương trong một Vùng; gắn quy hoạch với quản lý quy hoạch cấp Vùng với chính sách phát triển kinh tế - xã hội và thu hút, quản lý đầu tư.
- Khẩn trương phối hợp với các bộ, ngành, địa phương có liên quan xây dựng Nghị định của Chính phủ về cơ chế phối hợp giữa các tỉnh, thành phố trong Vùng Thủ đô để thi hành các quy định của pháp luật về Thủ đô, trong đó có các chính sách ưu tiên đầutư cho các công trình hạ tầng kinh tế, xã hội của Vùng Thủ đô.
- Xây dựng cơ chế, chính sách thông thoáng cho các địa phương để tạo điều kiện cho vùng KTTĐ Bắc Bộ kêu gọi đầu tư nhằm tăng tốc, phát triển bền vững; khuyến khích khởi nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, ngành du lịch du lịch, ngành logictics.
- Xây dựng các cơ chế, chính sách tạo nguồn lực cho các địa phương trong vùng tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật và xã hội; đặc biệt là các đối tác phát triển và khối tư nhân.
- Thu hút các dự án thân thiện với môi trường, công nghiệp sinh thái, chuyển giao công nghệ tiên tiến, công nghiệp phụ trợ tại các địa phương Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên; thu hút các dự án FDI có tính chất lan tỏa, lôi kéo các doanh nghiệp trong nước tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu./
Bình luận