Xuất khẩu Việt Nam hưởng lợi

Tại hội thảo công bố báo cáo “Thực hiện hiệu quả RCEP gắn với cải thiện tính tự chủ của nền kinh tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế thương mại và đầu tư ở Việt Nam” do CIEM phối hợp với Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform) tổ chức sáng nay, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng CIEM cho biết, năm 2020, chúng ta phải đối mặt với không ít khó khăn và hệ lụy tiêu cực do đại dịch COVID-19. Trong đó, những cụm từ như “gián đoạn” hay “đứt gãy” chuỗi cung ứng được nhắc đến thường xuyên, và thực tế đã có những thời điểm gây ra nhiều quan ngại cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Đặt trong bối cảnh ấy, Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định xuất khẩu vẫn là một cấu phần quan trọng trong “cỗ xe tam mã” để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Theo đó, Việt Nam đã có những kết quả quan trọng về hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó có việc phê chuẩn và thực hiện Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và mới nhất là ký kết Hiệp định RCEP.

RCEP không phải là nội dung mới, mà là kết quả có sau hơn 7 năm kể từ phiên đàm phán đầu tiên. Ý tưởng về RCEP được hình thành trong bối cảnh gia tăng nỗ lực tự do hóa thương mại và đầu tư ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009.

Toàn cảnh hội thảo/Ảnh: Đức Trung

Theo ông Nguyễn Anh Dương - Trưởng ban Ban nghiên cứu tổng hợp của CIEM, việc tham gia RCEP có thể mang lại một số cơ hội và cả thách thức đối với hoạt động thương mại của Việt Nam. Bao phủ vùng lãnh thổ với 30% dân số toàn cầu, hiệp định RCEP tạo ra một thị trường lớn và tiềm năng cho xuất khẩu. Đây là khu vực có nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, mức sống cao nên nhu cầu tiêu dùng cũng rất lớn. Một số quốc gia yêu cầu không quá cao về chất lượng sản phẩm – điều đang gặp phải trong CPTPP, EVFTA…, do đó phù hợp với trình độ của phần lớn doanh nghiệp trong nước.

Ngay cả với nhập khẩu, Việt Nam cũng có thể được hưởng lợi từ việc gia tăng chất lượng hàng nhập khẩu cho tiêu dùng. Báo cáo của nhóm nghiên cứu CIEM chỉ ra, tỷ trọng của hàng có hàm lượng công nghệ cao trong nhập khẩu từ một số thị trường RCEP của Việt Nam có xu hướng tăng. Nếu Việt Nam thực thi nghiêm ngặt các quy định theo hướng nâng chuẩn chất lượng hàng hóa, chi phí nhập khẩu có thể không giảm, song chất lượng hàng nhập khẩu từ RCEP có thể gia tăng, qua đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu sản xuất và/hoặc tiêu dùng ở trong nước.

Mặt khác, Hiệp định RCEP mở ra cơ hội cho Việt Nam tiếp cận dễ dàng hơn với các thị trường xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ đa dạng cả về loại hình và giá cả của các nước đối tác. Các quy định về xóa bỏ và cắt giảm thuế quan sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội nhập khẩu nguyên vật liệu và máy móc từ các nước có trình độ khoa học kỹ thuật cao, với mức giá thấp hơn. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể tăng tăng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm chi phí sản xuất. Chất lượng sản phẩm cao hơn với chi phí thấp hơn góp phần tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Cùng với việc gia tăng thương mại hàng trung gian, doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực. Thông qua các hoạt động hợp tác kỹ thuật và xuất nhập khẩu hàng trung gian, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận và nhận chuyển giao khoa học, công nghệ; nâng cao năng lực sản xuất và quản lý và theo đó, được tham gia vào các công đoạn sản xuất quan trọng hơn, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao hơn. Quá trình này giúp doanh nghiệp không ngừng cải thiện và nâng cao trình độ, năng lực cạnh tranh và tăng cường vị thế trong chuỗi sản xuất toàn cầu.

Song, tăng rủi ro nhập siêu

Dù vậy, RCEP cũng tạo ra những thách thức đối với hoạt động thương mại, thể hiện qua nguy cơ gia tăng nhập siêu. Cụ thể, ngành sản xuất trong nước sẽ phải đối mặt với một thách thức lớn là hàng hóa từ các nước khác có thể đưa vào Việt Nam với mức thuế suất thấp hơn. Nếu doanh nghiệp từ các đối tác trong RCEP không điều chỉnh giá trước thuế nhập khẩu, thì hàng của họ vẫn sẽ cạnh tranh hơn về giá khi vào Việt Nam và có thể gây áp lực đối với nhập siêu.

Trong một kịch bản khác, doanh nghiệp ở các nước RCEP dùng phần chi phí tiết kiệm được từ thuế nhập khẩu để gia tăng đầu tư cho công nghệ, chất lượng sản phẩm, thì phần giá trước thuế có thể không thay đổi, nhưng lượng nhập khẩu nhiều hơn. Khi đó, hệ lụy đối với nhập siêu của Việt Nam sẽ còn lớn hơn. Thực tế nhập siêu giai đoạn trước 2020 với các nước RCEP ít nhiều đã phản ánh lo ngại này.

Một mặt, gia tăng nhập siêu có thể gây áp lực đối với cán cân thanh toán và thị trường ngoại hối, qua đó ảnh hưởng đến tình hình kinh tế vĩ mô và dư địa chính sách tiền tệ ở Việt Nam – điều luôn được quan tâm trong những thập niên gần đây. Mặt khác, ngay cả khi gia tăng nhập siêu từ RCEP có thể được bù đắp bởi thặng dư thương mại từ các thị trường khác, rủi ro hàng xuất khẩu của Việt Nam bị điều tra lẩn tránh thuế vẫn hiện hữu, qua đó ảnh hưởng đến lựa chọn điều hành xuất khẩu ở cả cấp chính sách và cấp doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, đối với mức độ tự chủ trong chuỗi cung ứng, việc Việt Nam nhập khẩu nhiều mà không xuất khẩu được là một điều đáng lo.

Liên quan đến thách thức về năng lực cạnh tranh, ông Nguyễn Anh Dương cho rằng: “Trong RCEP, hàng hóa Việt Nam với các nước có sự tương đồng. Hơn nữa, mức độ bổ trợ thương mại của Việt Nam với RCEP không cải thiện nhiều trong giai đoạn 2010-2018. Việt Nam cũng ít tạo dựng được lợi thế cạnh tranh mới từ RCEP”.

Ông Nguyễn Anh Dương chỉ ra thách thức đối với thương mại Việt Nam khi tham gia RCEP/Ảnh: Đức Trung

Bà Nguyễn Thị Thu Trang – Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng bày tỏ lo ngại: “RCEP là FTA thế hệ mới nhưng tiêu chuẩn thấp. Liệu tham gia có làm cho doanh nghiệp Việt Nam mất đi động lực để tăng chất lượng hàng hóa? Có làm giảm động lực cải cách từ phía chính quyền?”.

Đồng tình với quan điểm trên, ông Lê Xuân Bá – nguyên Viện trưởng CIEM nêu rõ: “Tiêu chuẩn của RCEP là thấp mà Việt Nam cứ mải mê chạy theo thì rất đáng lo ngại. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam có trình độ kém, góc nhìn hạn hẹp. Nếu chỉ tư duy nhiệm kỳ với ý nghĩ đạt lợi trước mắt, thì về lâu dài sẽ phải trả giá”.

Cùng những khó khăn trong sàng lọc dự án FDI

Cũng như hoạt động thương mại, đối với đầu tư nước ngoài, RCEP đem lại cả cơ hội và thách thức đan xen. Báo cáo của CIEM cho hay, Việt Nam có thêm cơ hội thu hút FDI từ sự dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc do tác động của chiến tranh thương mại, công nghệ Mỹ - Trung, cũng như những xu hướng cân nhắc mới trong và sau đại dịch COVID-19. Cơ hội này lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc nhiều vào việc: Việt Nam có thể gia tăng hợp tác với các nước ASEAN, thay vì cạnh tranh với nhau theo hướng “đua xuống đáy”, để cùng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài; Việt Nam đủ tinh tế, thực dụng để không bỏ qua dự án tốt chỉ vì dự án ấy xuất phát từ một thị trường nào đó; và Việt Nam có thể nhanh chóng thu hút một số dự án tốt ngay từ đầu, bởi các dự án này có thể là “minh chứng tốt” để thuyết phục các nhà đầu tư khác đến Việt Nam.

Tuy nhiên, thách thức cũng không nhỏ, bởi: (i) nhìn nhận và xử lý hiệu quả nhập siêu gắn với đầu tư nước ngoài ở thị trường RCEP là một thách thức lớn, thậm chí trở nên phức tạp hơn; (ii) sàng lọc chất lượng của dự án FDI là chủ trương đúng, nhưng thực hiện không dễ sau khi RCEP đi vào thực thi; (iii) kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài từ RCEP và hệ lụy đối với kinh tế vĩ mô vẫn là một vấn đề phức tạp; (iv) khó khăn trong cân đối giữa thu hút, bảo vệ nhà đầu tư và quyền xây dựng chính sách của Việt Nam.

Những thách thức trên ít nhiều đều ảnh hưởng đến mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam, song vẫn có thể xử lý được. Dù vậy, xử lý thách thức về thể chế phụ thuộc vào mức độ toàn diện trong cách tiếp cận của Việt Nam và khó có thể hiệu quả nếu nhìn nhận vấn đề thương mại và đầu tư nước ngoài một cách rời rạc khi thực hiện RCEP.

Nỗ lực cải cách, hoàn thiện thể chế

Từ kết quả nghiên cứu, báo cáo của CIEM đề xuất khung chính sách để thực hiện hiệu quả RCEP gắn với cải thiện mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam, bao gồm một số giải pháp chính sau:

Thứ nhất, Việt Nam cần tiếp tục thực hiện các cải cách đối với nền tảng kinh tế vi mô nói chung, bao gồm cả chính sách cạnh tranh, môi trường kinh doanh, các thị trường nhân tố sản xuất. Những cải cách ấy phải đặt trên một nền tảng chính sách để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường sức chống chịu của nền kinh tế.

TS. Lê Xuân Bá cho rằng, có nhiều ý kiến lo lắng về sự phụ thuộc kinh tế khi tham gia RCEP. “Đó là chuyện rất bình thường, ngay cả nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ cũng phụ thuộc vào các nền kinh tế khác. Vấn đề quan trọng là, làm thế nào để ta phụ thuộc họ và họ cũng phụ thuộc vào ta”, nguyên Viện trưởng CIEM khẳng định.

Ông Lê Xuân Bá cũng nhấn mạnh, giảm phụ thuộc vào bên ngoài là mong muốn của mọi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nếu chúng ta nhập khẩu nhiều mà có lợi cho sự phát triển kinh tế thì là tốt, nhưng nếu làm kinh tế lụn bại thì cần xem xét. Mà muốn thoát khỏi nhập khẩu, thì phải tái cơ cấu mạnh mẽ, mặc dù đi kèm đó sẽ phải trả giá.

Thứ hai, chính sách đầu tư phải ở vị trí trung tâm, gắn sâu xa hơn về một tư duy đủ định hướng, khả thi về một số (ít) ngành cần ưu tiên phát triển và các ngành cần thúc đẩy tự do cạnh tranh, mức độ tham gia chuỗi giá trị ở khu vực RCEP và mức độ tự chủ trong thu hút, sử dụng các dự án FDI từ khu vực RCEP.

Thứ ba, chính sách thương mại cần có sự nhất quán với chính sách đầu tư, qua đó góp phần xử lý hiệu quả, hài hòa hơn vấn đề nhập siêu và nhập khẩu hàng trung gian, đồng thời phù hợp với sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị khu vực RCEP.

Thứ tư, Việt Nam cần xử lý các điểm nghẽn về hạ tầng và nguồn nhân lực, trong đó có sự tham gia của các nhà đầu tư và đối tác nước ngoài ở trình độ phù hợp…/.