Sau khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề cập đến những vướng mắc về quản lý, kiểm tra chuyên ngành bị doanh nghiệp “kêu” nhiều nhất hiện nay, tập trung chủ yếu tại Bộ Công Thương tại Báo cáo về tình hình triển khai Nghị quyết 19 , thì mới đây Bộ này đã có những chuyển biến đáng kể.

Đầu tiên phải kể đến việc bãi bỏ Thông tư số 37/2015/TT-BCT, ngày 30/10/2015 quy định về mức giới hạn và việc kiểm tra hàm lượng formaldehyt và amin thơm chuyển hóa từ thuốc nhuộm azo trong sản phẩm dệt may. Điều này khiến cộng đồng doanh nghiệp vô cùng hưởng ứng.

Bởi, ngay sau khi ra đời, thông tư này đã nhận được nhiều “than phiền” của cộng đồng doanh nghiệp, do quy định tại Thông tư 37 khiến diện sản phẩm dệt may phải kiểm tra quá nhiều, không cần thiết, thủ tục rườm rà, thời gian làm thủ tục mất từ 7-10 ngày. Hơn nữa, chi phí kiểm tra một mẫu lên tới 2,5 triệu đồng, khiến các doanh nghiệp vừa tốn thời gian, chi phí, vừa mất cơ hội kinh doanh.

Sau khi đá được “cục đá tảng” là Thông tư 37, mới đây, Bộ Công Thương tiếp tục cân nhắc bãi bỏ các quy định về dán nhãn năng lượng.

Theo Thông tư 07/2012, ngày 04/04/2012 về dán nhãn năng lượng, thì doanh nghiệp nhập khẩu phương tiện, thiết bị phải thực hiện thủ tục 2 giai đoạn do 2 đơn vị khác nhau thực hiện. Đó là vừa phải thủ tục thử nghiệm tại các tổ chức đánh giá sự phù hợp do Bộ Công Thương chỉ định; vừa phải xin cấp Giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng (một loại giấy phép) ở Bộ Công Thương (Tổng cục Năng lượng). Hơn nữa, Thông tư 07 còn quy định việc thử nghiệm và cấp giấy chứng nhận dán nhãn được thực hiện đối với từng lô hàng.

Với quy định này, hầu hết các doanh nghiệp và đơn vị Hải quan đều không đồng tình và cho rằng, quản lý hiệu suất năng lượng là quản lý đối với hàng hoá, chứ không phải là quản lý doanh nghiệp nhập khẩu. Thay vì phải cấp giấy chứng nhận cho mặt hàng, Bộ Công Thương lại quy định cấp cho từng lô hàng, dẫn tới một mặt hàng/model hàng phải thử nghiệm, cấp giấy chứng nhận nhiều lần, gây phiền hà, tốn kém chi phí và thời gian cho doanh nghiệp, cho xã hội.

Bên cạnh đó, về thái độ của cán bộ công chức liên quan đến việc cấp Giấy chứng nhận dán nhãn năng lượng cũng bị doanh nghiệp lên án, như: gửi hồ sơ qua bưu điện thì không trả lời; gửi hồ sơ trực tiếp không có phiếu hẹn ngày trả kết quả, thậm chí không ký nhận; doanh nghiệp thường phải sử dụng hình thức qua trung gian hoặc trả chi phí không chính thức.

Trước những bức xúc này, tại buổi làm việc với Tổng cục Năng lượng, ngày 18/10, Bộ trưởng Công Thương Trần Tuấn Anh cũng đã yêu cầu các đơn vị chức năng lập tức tiến hành rà soát nội dung Thông tư số 07 và các văn bản có liên quan để tiến hành sửa đổi, loại bỏ các quy định không phù hợp. Trong đó, những vấn đề cụ thể đã được cộng đồng doanh nghiệp phản ánh cần được nghiêm túc xem xét để có xử lý một cách phù hợp trên tinh thần cầu thị, hướng tới phục vụ cho hoạt động của doanh nghiệp.

Như vậy, những động thái tích cực của Bộ Công Thương gần đây cho thấy, lãnh đạo Bộ đã cầu thị hơn, thay vì chỉ thay đổi cho có, chẳng giúp gì cho doanh nghiệp như trước đây.

Tuy nhiên, chỉ mình Bộ Công Thương thay đổi thôi, thì chưa đủ. Bởi, hệ thống các văn bản, thủ tục hành chính gây khó khăn cho doanh nghiệp ở các bộ, ngành khác còn nhiều. Điều này đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ ra, đó là sau 2 năm cải cách thủ tục hành chính theo Nghị quyết 19 (2014, 2015), Bộ Tài chính còn 1.645 thủ tục, Bộ Tư pháp còn 678 thủ tục, Bộ Lao động Thương binh và xã hội còn 569 thủ tục...

Như vậy, từ sự chuyển biến của Bộ Công Thương, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng lớn hơn về việc sẽ có những thay đổi tiếp theo trong những bộ, ngành khác, để từ đó xây dựng được một Chính phủ kiến tạo mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đang nỗ lực hướng tới.

Trăn trở với câu hỏi “Liệu doanh nghiệp có tin tưởng vào môi trường kinh doanh để tạo ra làn sóng đầu tư mới, làn sóng phát triển mới hay không?” tại Hội thảo quốc tế “Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đổi mới, phát triển doanh nghiệp”, ngày 26/03/2016, ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cho rằng, câu trả lời tùy thuộc vào liệu có làn sóng cải cách thể chế hay không. Bởi, thể chế nào, doanh nhân đó.

Cũng theo ông Lộc, Chính phủ cần phát huy 4 nguồn lực: cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục để giảm chi phí không chính thức và chính thức; thành lập trung tâm hành chính công; thúc đẩy xúc tiến đầu tư; thúc đẩy thay đổi quản trị doanh nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.

Còn theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, hệ thống các quy định về điều kiện kinh doanh của Việt Nam hiện nay vẫn còn tình trạng “tám không”, như: không minh bạch, không hiệu quả, không rõ ràng, không cụ thể, không tiên liệu được…. Những cái “không” như thế làm thị trường méo mó, cạnh tranh không bình đẳng và tạo thêm nhiều chi phí cho doanh nghiệp. Cùng với đó, tạo nhiều rủi ro, thui chột sáng tạo cho doanh nghiệp. Đây là lực cản lớn cho môi trường kinh doanh nói chung và các hoạt động doanh nghiệp nói riêng.
Theo chuyên gia kinh tế Võ Trí Thành, Chính phủ cần giải quyết 3 điểm vướng cơ bản, đó là: (1) Tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, đặc biệt là giảm gánh nặng chi phí giao dịch để không làm suy giảm tinh thần cạnh tranh và làm nản lòng tinh thần khởi nghiệp cũng như sức sáng tạo, nhìn xa trông rộng của doanh nghiệp; (2) Cần tiếp tục rà soát và làm cho tương thích hệ thống pháp lý và cách ứng xử pháp lý của Việt Nam với các cam kết quốc tế, trong đó có các hiệp định thương mại tự do chất lượng cao, như: TPP, EVFTA… (3) Phải khơi dậy ý chí khởi nghiệp của doanh nghiệp.