Công nghiệp điện tử Việt Nam mới chỉ ở bước đầu trong chuỗi giá trị
Sáng nay (28/3) tại Hà Nội, Viện Chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với Viện Phát triển Hàn Quốc đã tổ chức Hội thảo công bố báo cáo cuối cùng Chương trình chia sẻ tri thức (KSP) của Hàn Quốc với Việt Nam năm 2016-2017.
Tại hội thảo, PGS, TS. Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển cho biết, năm 2017 đánh dấu 12 năm của chương trình KSP giữa Hàn Quốc và Việt Nam với hơn 55 chủ đề nghiên cứu đã được thực hiện.
PGS, TS. Bùi Tất Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển phát biểu tại hội thảo
PGS, TS. Bùi Tất Thắng cũng cho biết thêm, chủ đề lớn của chương trình KSP năm nay là “Thúc đẩy tính hiệu quả từ trong nội tại”. Theo đó, một trong ba nội dung nghiên cứu tham vấn đã được thực hiện là nghiên cứu chính sách hình thành và phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử.
Là một trong những chuyên gia thực hiện chuyên đề này, GS. Keuk-je Sung, Trường Đại học Kyunghee Hàn Quốc khẳng định, trong chuỗi giá trị toàn cầu ngành điện tử, Việt Nam đã tham gia vào tất cả các khâu sản xuất và lắp ráp, như: sản xuất linh kiện, lắp ráp sản phẩm trung gian, lắp ráp sản phẩm cuối cùng.
Tuy nhiên, mặc dù được coi là ngành công nghiệp then chốt và đã đạt được một số thành tựu trong thu hút FDI, cũng như đóng vai trò chính trong xuất khẩu, ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam mới chỉ ở những bước đầu trong chuỗi giá trị của ngành điện tử và đang phụ thuộc chủ yếu vào các doanh nghiệp FDI.
Đáng chú ý là, năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc đáp ứng yêu cầu của các công ty đa quốc gia còn hạn chế. Số lượng các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi cung ứng của các công ty đa quốc gia tại Việt Nam rất nhỏ. Những doanh nghiệp cung ứng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp điện tử cấp 1 và cấp 2 chủ yếu là các doanh nghiệp FDI, những doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào vật liệu sản xuất cơ bản và linh kiện nhập khẩu.
GS. Keuk-je Sung cho rằng, ngành công nghiệp điện tử chưa đạt được như kỳ vọng, xuất phát từ ba nguyên nhân. Thứ nhất, tại thời điểm ban hành những văn bản chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành điện tử, Việt Nam chưa đảm bảm được nguồn lực tài chính để thực hiện. Phát triển công nghiệp hỗ trợ mới chỉ chính thức được đưa vào văn bản pháp luật từ năm 2010 và trong các văn bản ban hành những chính sách này, Nhà nước luôn giao cho một số bộ đề xuất những hoạt động cụ thể và đề xuất ngân sách để thực hiện. Bộ Tài chính được giao nhiệm vụ cân đối ngân sách để cho ý kiến vào những đề xuất của các bộ, song nguồn lực thực hiện những chính sách đã được đưa ra này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng cân đối của ngân sách nhà nước.
Thứ hai, quá trình ban hành chính sách còn thiếu sự tham gia thực chất của các doanh nghiệp. Cách thức tham gia chủ yếu của doanh nghiệp vào dự thảo các văn bản chính sách đó là thông qua website của các cơ quan nhà nước.
Thứ ba, Nhà nước ban hành chính sách đôi khi còn dựa vào mong muốn chính trị và quá tham vọng.
Bổ sung thêm nguyên nhân dẫn đến công nghiệp điện tử Việt Nam phát triển chưa đạt kỳ vọng, TS. Trương Thị Chí Bình, Giám đốc Trung tâm phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, Viện chiến lược chính sách công nghiệp, Bộ Công Thương cho rằng, hai khó khăn chính và chủ đạo đối với sự phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đó là: (i) do khu vực tư nhân của Việt Nam còn mới và non trẻ, so với các nước khác như Nhật Bản hay Hàn Quốc…; (ii) do công nghiệp điện tử phát triển quá nhanh và mạnh, Việt Nam chưa thể theo kịp được.
Trên cơ sở đó, GS. Keuk-je Sung kiến nghị Việt Nam cần phát triển thương hiệu quốc gia, mở rộng kế hoạch hợp tác với các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, mua công nghệ nước ngoài, cũng như nới lỏng các điều kiện cho vay và phát triển ngành công nghiệp vật liệu.
Những đề xuất chung bao gồm xóa bỏ những phân biệt đối xử trong sản xuất, cũng như phân biệt đối xử với các công ty trong nước. Điều kiện tiên quyết khi ban hành chính sách đó là chính sách cần phải chi tiết và bao trùm, có tầm nhìn dài hạn.
Quan trọng không kém là, những quyết định mang tính đột phá cần phải là sáng kiến của người lãnh đạo cao nhất, bởi không có những cam kết mạnh mẽ và đáng tin cậy cả những nhà lãnh đạo cao nhất, thì những quyết định mang tính đột phá khó có thể được đưa ra./.
Bình luận