KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2013

Những thay đổi của tình hình kinh tế trong và ngoài nước đã làm cho các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội chủ yếu của kế hoạch 5 năm 2011-2015 trở nên khá cao. Các mục tiêu, nhiệm vụ này được Đại hội XI của Đảng (tháng 1/2011) thông qua, được tính toán trên cơ sở kế thừa những thành tựu của việc thực hiện các mục tiêu chiến lược 10 năm trước đó và những dự báo về bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế lúc đó có nhiều điều kiện tương đối thuận lợi. Ở trong nước, những kinh nghiệm tích lũy được sau hơn 20 năm đổi mới đã bảo đảm kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tăng trưởng kinh tế khá (bình quân đạt 7,3% thời kỳ 2001-2010), GDP năm 2010 gấp 2 lần năm 2000, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh và đã hoàn thành hầu hết mục tiêu Thiên niên kỷ cam kết với quốc tế, chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững...

Thế nhưng, ngay sau khi Đại hội XI bế mạc (19/1/2011), tình hình kinh tế đã nhanh chóng xuất hiện những dấu hiệu bất ổn. Những yếu kém vốn có của nền kinh tế cùng những nhiệm vụ của đổi mới thể chế chưa được giải quyết dồn tích lại từ nhiều năm trước đã bộc lộ ra một cách gay gắt, đòi hỏi phải được giải quyết một cách hệ thống, căn bản và cấp bách. Trên bề mặt của đời sống kinh tế, chỉ số giá tiêu dùng của năm 2011 đã tăng lên 1,5 lần so với mức lạm phát của năm trước (từ mức 11,75% của năm 2010 lên 18,13%). Đồng thời, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng tăng lên, đặc biệt trong lĩnh vực bất động sản, trực tiếp gây ra tình trạng rủi ro, bất ổn đe dọa hệ thống ngân hàng. Số lượng doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng cao hơn trước… Kinh tế thế giới cũng xuất hiện nhiều diễn biến xấu, lạm phát tăng, giá dầu thô, nguyên vật liệu cơ bản đầu vào của sản xuất, lương thực, thực phẩm trên thị trường tiếp tục tăng cao. Sau khủng hoảng tài chính ở Mỹ năm 2008, kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự báo.

Trước tình hình thực tế như vậy, phản ứng trong chính sách điều hành kinh tế cũng đã rất nhanh nhạy, kịp thời. Ngay trong tháng 2/2011, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 11/NQ-CP, chuyển trọng tâm điều hành chính sách sang “tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội”. Quan điểm chỉ đạo này được khẳng định tại Kết luận số 02-KL/TW ngày 16/3/2011 của Bộ Chính trị là: “Tập trung ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát; ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội; coi đây vừa là nhiệm vụ cấp bách ngắn hạn của năm 2011, vừa là nhiệm vụ quan trọng của một vài năm tiếp theo”. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (10/2011) đánh giá các giải pháp, chính sách này là ”đúng đắn, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước” và xác định: “Trong năm 2012 và những năm tiếp theo, tiếp tục... ưu tiên hàng đầu cho việc kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế”.

Trên tinh thần chỉ đạo này, trong 3 năm qua, kết quả thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội về đại thể như sau:

Về nhiệm vụ kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô

Ba năm qua, nhờ kiên trì theo đuổi mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, áp dụng đồng bộ các biện pháp, chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm đã giảm từ mức 18,13% năm 2011 xuống 9,21% năm 2012 và năm 2013 lạm phát ở mức khoảng 6,04%. Mặt bằng lãi suất huy động đã giảm từ mức 17%-18% của năm 2011 xuống còn 7%-10%/năm, mặt bằng lãi suất cho vay giảm còn 9%-12%/năm, hiện lãi suất cho vay khoảng 9%-11,5% (các lĩnh vực ưu tiên là 7%-9%), đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận được với nguồn vốn từ ngân hàng. Bội chi ngân sách, nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia theo cách đánh giá của Việt Nam vẫn trong giới hạn kiểm soát. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vẫn có xu hướng tăng lên; năm 2011, số vốn đăng ký là 15,6 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 11 tỷ USD; các con số tương ứng của năm 2012 là 16,3 tỷ USD và 10,1 tỷ USD; năm 2013 là 21,6 tỷ USD và 11,5 tỷ USD.

Về tăng trưởng kinh tế

Theo giá so sánh năm 2010, GDP năm 2011 tăng 6,24%, năm 2012 tăng 5,25% và năm 2013 tăng 5,42%. Bình quân 3 năm, GDP tăng 5,6%/năm. Tuy chưa đạt kế hoạch đề ra ban đầu cũng như chỉ tiêu đã điều chỉnh, song đây là mức tăng có thể chấp nhận được và có phần cao hơn chút ít so với mức bình quân của các nước ASEAN (5,1%/năm trong thời kỳ 2011-2013, theo IMF). Tuy nhiên, điều rất lo ngại là, khu vực sản xuất vật chất có xu hướng giảm dần tốc độ tăng trưởng (Bảng 1).

Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế chia theo khu vực giai đoạn 2011-2013

Năm

GDP

Nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Công nghiệp và xây dựng

Dịch vụ

2011

6,24

4,02

6,68

6,83

2012

5,25

2,68

5,75

5,90

2013

5,42

2,67

5,43

6,56

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Về nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng

Do đây là nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch 5 năm 2011-2015, vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt, lại vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài, nên 3 năm qua, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo việc hoàn thiện thể chế, chính sách và quy định pháp luật phục vụ cho tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.

Đối với tái cơ cấu đầu tư, trọng tâm là đầu tư công, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 1792/CT-TTg, ngày 15/10/2011 về tăng cường quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước và vốn trái phiếu chính phủ; Chỉ thị số 27/CT-TTg, ngày 10/10/2012 về những giải pháp chủ yếu khắc phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản tại các địa phương; Chỉ thị số 14/CT-TTg, ngày 28/6/2013 về tăng cường quản lý đầu tư và xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước, trái phiếu chính phủ. Trên thực tế, tái cơ cấu đầu tư công là một bước đột phá và là một trong các khâu đi vào cuộc sống mang lại hiệu quả cao. Đổi mới cơ chế phân bổ vốn đầu tư theo hướng minh bạch hóa, thực hiện cân đối vốn đầu tư theo kế hoạch trung hạn (kể cả vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ và các chương trình mục tiêu quốc gia); tập trung vốn cho các công trình dự án quan trọng, cấp thiết, sớm hoàn thành, đưa nhanh vào sử dụng để phát huy hiệu quả; ưu tiên bố trí vốn cho các công trình cần thiết phải hoàn thành trong năm kế hoạch và vốn đối ứng cho các dự án ODA..., nên đã khắc phục một cách cơ bản tình trạng dàn trải trong đầu tư công tồn tại dai dẳng trong nhiều năm qua.

Đối với cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là tái cấu hệ thống ngân hàng thương mại, đã ban hành các chính sách bảo đảm hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng từng bước ổn định, nguy cơ đổ vỡ cơ bản được đẩy lùi và trong tầm kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém đã được tiến hành tái cơ cấu trên nguyên tắc tự nguyện. Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) chính thức đi vào hoạt động, góp phần tạo thế chủ động kiểm soát sự gia tăng của nợ xấu và xử lý nợ xấu cho hệ thống ngân hàng. Tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra các tổ chức tín dụng, tập trung vào việc thực hiện cơ cấu lại nợ, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, lợi nhuận và chia cổ tức; giám sát chặt chẽ tình hình hoạt động của các tổ chức tín dụng yếu kém.

Đối với tái cơ cấu doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, đã tập trung chỉ đạo hoàn thiện cơ chế, chính sách; ban hành và triển khai thực hiện Nghị định về phân công, phân cấp thực hiện quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với DNNN và phần vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp. Tính đến giữa năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 17/21 đề án tái cơ cấu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Các bộ đã phê duyệt 26 đề án tái cơ cấu tổng công ty trực thuộc. Về cơ bản đã hoàn thành phê duyệt phương án sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp giai đoạn 2011-2015 trên phạm vi toàn quốc (99/101 đề án đã trình). Năm 2012 cổ phần hóa được 13 doanh nghiệp, 9 tháng đầu năm 2013 cổ phần hóa được 27 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước giảm từ 5.655 năm 2001 đến nay còn 1.257 doanh nghiệp. Hiện nay, DNNN đóng góp trên 33% tăng trưởng GDP, trên 30% tổng thu ngân sách nhà nước (chưa tính thu từ dầu thô qua Tập đoàn Dầu khí).

Về việc thực hiện ba đột phá chiến lược

- Đột phá về thể chế: Thể chế kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp tục được hoàn thiện. Trong ba năm qua, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 45 luật, pháp lệnh; Chính phủ đã ban hành gần 500 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó nhiều văn bản liên quan trực tiếp đến việc tạo lập, củng cố môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh, hội nhập quốc tế. Đặc biệt, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khoá XIII (11/2013).

- Đột phá về phát triển nguồn nhân lực: Nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề như Luật Giáo dục đại học năm 2012, Nghị định 73/2012/NĐ-CP, ngày 26/9/2012 của Chính phủ về hợp tác, đầu tư của nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Bên cạnh đó, Chiến lược phát triển nguồn nhân lực, Chiến lược giáo dục, Chiến lược dạy nghề, Quy hoạch phát triển nhân lực cả nước giai đoạn 2011-2020… đã được ban hành. Mạng lưới và quy mô giáo dục, đào tạo nghề, đào tạo đại học và sau đại học ngày càng tăng. Lĩnh vực khoa học, công nghệ đang có những đổi mới mạnh mẽ về hệ thống chính sách, cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI (10/2012) về Phát triển khoa học, công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

- Đột phá về kết cấu hạ tầng: Trên tinh thần đổi mới chính sách phát triển kết cấu hạ tầng, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (1/2012) đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW về Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Thực hiện chủ trương này, các chính sách đổi mới tập trung theo hướng đa dạng hóa các hình thức đầu tư (BOT, BT, BO, PPP), tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước vào kết cấu hạ tầng.

TRIỂN VỌNG KINH TẾ VIỆT NAM 2014-2015

Triển vọng kinh tế Việt Nam 2014-2015 gắn liền với nhiệm vụ dài hạn mà các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tái cơ cấu kinh tế được thực hiện để tạo ra được mô hình tăng trưởng mới. Theo cách tiếp cận này, nền kinh tế đang phải đối mặt với một số những thách thức mới như sau:

Một là, thách thức của việc phục hồi và nâng cao tốc độ tăng trưởng

Báo cáo Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 đã nêu rõ: phấn đấu đến năm 2020, GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD. Muốn đạt mức này, GDP năm 2020 theo giá so sánh (1994) phải bằng khoảng 2,2 lần so với năm 2010 và tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7%-8%/năm (2011-2020). Ba năm qua, tốc độ tăng GDP đều đã thấp hơn so với mục tiêu kế hoạch đã điều chỉnh (6%-6,5%). Trong khi đó, những nước xung quanh ta về cơ bản vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, kể cả Lào và Campuchia, làm tăng nguy cơ bị tụt hậu.

Nếu trong một vài năm tới, tốc độ tăng trưởng kinh tế không được phục hồi trở lại ở mức bình quân khoảng 7,5%/năm trong giai đoạn 2 thập kỷ (1991-2010) vừa qua, thì việc đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn nữa cho những năm sau đó (đến 2020) để bù đắp cho những năm tăng trưởng giảm đi hiện nay, sẽ là một thách thức không nhỏ. Vì vậy, đã đến lúc cần nhấn mạnh đến các giải pháp khẩn cấp về tái cơ cấu để chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong tình hình hiện nay.

Hai là, thách thức của việc bảo đảm những nguồn lực cho việc thực hiện các mục tiêu chiến lược

Để đẩy nhanh tốc độ thực hiện hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế phải có khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, trong đó đặc biệt là nguồn vốn đầu tư. Nếu muốn duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức khoảng 7,5% như thời gian vừa qua, nền kinh tế đã phải duy trì mức đầu tư cao tới trên 35% GDP, cá biệt có năm lên tới trên 40% GDP. Trong khi đó, do khả năng tích lũy, tiết kiệm để đầu tư từ trong nước có hạn, chúng ta đã phải dựa một phần vào FDI, một phần vào vốn vay (cả trong nước và quốc tế). Tình hình đó nếu cứ tiếp tục kéo dài, có thể sẽ ảnh hưởng không tốt đến khả năng bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô.

Hiện nay, do Việt Nam đã bước vào nhóm nước có mức thu nhập trung bình (tuy là mức thu nhập trung bình thấp: ≥ 1.000 USD), nhưng điều đó cũng có nghĩa là những khoản vốn vay ưu đãi sẽ thu hẹp dần lại. Ngân hàng thế giới đang đề nghị Việt Nam “tốt nghiệp” về vay ODA (không cho vay giá rẻ nữa)! Vì vậy, đã đến lúc cần phải có những thay đổi kể cả từ nhận thức đến hành động chính sách về việc bảo đảm những cân đối lớn trong nền kinh tế, đặc biệt là cân đối giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa tiết kiệm và đầu tư, thu hút được các nhà đầu tư tốt cho phát triển.

Ba là, thách thức của việc tạo ra mô hình tăng trưởng mới từ việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô

Trong thời điểm hiện tại, tuy tình hình ổn định kinh tế vĩ mô đã được cố gắng giải quyết và đã đạt được một số kết quả quan trọng: lạm phát đã được kiềm chế, kinh tế vĩ mô ổn định hơn, nhiều lĩnh vực sản xuất, dịch vụ tiếp tục phát triển; an sinh xã hội được bảo đảm… Nhưng nhìn tổng thể, Thông báo của Hội nghị Trung ương 6 khóa XI (10/2012) đã nêu rõ những mặt hạn chế: “Nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định; kết quả kiềm chế lạm phát chưa vững chắc. Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, nhất là khó vay vốn tín dụng, hàng tồn kho cao. Nợ xấu cao và có xu hướng tăng. Giải quyết việc làm khó khăn. Thị trường bất động sản đình trệ chưa có khả năng phục hồi, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn…”. Một năm sau, tại Thông báo của Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (10/2013) cho thấy, tình hình cải thiện chưa được nhiều: “Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiềm chế nhưng chưa thật vững chắc. Nợ xấu còn cao, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp khó tiếp cận vốn, sức mua chậm phục hồi, số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động còn lớn. Tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng còn chậm so với yêu cầu. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn thấp. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tín dụng chưa đạt yêu cầu. Triển khai thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược tuy đạt được một số kết quả bước đầu nhưng vẫn còn chậm”. Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã xác định mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế - xã hội 2 năm 2014-2015 là: “Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; phục hồi tăng trưởng, nâng cao sức cạnh tranh gắn với tái cơ cấu nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược”. Trong đó, “năm 2014 tập trung cao cho ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh”. Vì vậy, cần khẩn trương nghiên cứu những chính sách để nền kinh tế nhanh chóng vượt qua trạng huống “kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định”, làm cơ sở cho việc tập trung nguồn lực, thực hiện thật tốt ba đột phá chiến lược để chuyển sang mô hình tăng trưởng kinh tế mới.

Bốn là, thách thức của bước chuyển giai đoạn CNH, HĐH

Có thể thấy, cho đến nay, Việt Nam vẫn còn ở bước sơ khởi của quá trình CNH. Việc xếp kinh tế Việt Nam hiện nay ở vào giai đoạn 1 trong tiến trình phát triển 4 nấc thang về CNH của K. Ohno cũng trùng hợp với quan điểm của Jungho Yoo (KDI School of Public Policy and Management, Korea, 2008), khi chỉ dựa trên một tiêu chí duy nhất là coi thời điểm bắt đầu tiến trình CNH ở một nền kinh tế khi tỷ trọng lao động nông nghiệp chiếm 50% tổng lao động xã hội và kết thúc khi tỷ trọng lao động nông nghiệp chỉ còn 20% tổng lao động xã hội; vì hiện nay lao động trong khu vực nông nghiệp của Việt Nam vẫn còn chiếm gần 50% tổng số lao động xã hội.

Thông thường, tại thời điểm diễn ra các bước chuyển, các “điểm ngoặt” của sự phát triển, ngoài sự tăng tiến về lượng, còn đòi hỏi phải có sự trưởng thành về chất. Ở giai đoạn này, nhiều nước đã không vượt qua được “bẫy” thu nhập trung bình, mức phân hóa giàu nghèo gia tăng... Chính điều này cũng đặt ra như một thách thức không nhỏ đối với các nghiên cứu chính sách kinh tế ở Việt Nam trong thời điểm hiện nay.

Năm là, thách thức của việc giải quyết mối quan hệ giữa ổn định để phát triển và phát triển để ổn định

Trong bối cảnh hiện nay, cần thiết phải nhấn mạnh sự ổn định, coi ổn định là tiền đề cần thiết để phát triển. Mặc dù đã trải qua gần 30 năm đổi mới, nhưng nhiều vấn đề về ổn định kinh tế vĩ mô vẫn được đặt ra, nhất là khi tốc độ tăng trưởng có chiều hướng đi xuống, trong khi những yếu tố gây bất ổn kinh tế vĩ mô vẫn chưa được xử lý một cách căn bản. Tuy vậy, những chính sách ổn định chỉ có ý nghĩa khi nó tạo tiền đề cho phục hồi tăng trưởng và chỉ có duy trì được mức tăng trưởng hợp lý (đủ cao ở mức cần thiết) mới có thể giữ vững được ổn định (ổn định nhờ phát triển, thông qua phát triển và trong sự phát triển). Đối với trường hợp của một nước chỉ mới vừa bước qua ngưỡng nghèo, những nhân tố đòi hỏi phải phát triển nhanh mới giữ được ổn định đang ngày càng tăng lên. Đổi mới mà người dân không thấy được cuộc sống của họ được cải thiện, thì sức hấp dẫn của Đổi mới sẽ suy giảm.

Trước yêu cầu mới của tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ 2011-2020 với những dự báo kinh tế thế giới bước vào thời kỳ toàn cầu hóa rất sâu, rộng; nền kinh tế tri thức sẽ hình thành và phát triển; tương quan lực lượng kinh tế và chính trị thế giới có khả năng có nhiều thay đổi, những diễn biến kinh tế và chính trị có nhiều khả năng xảy ra những tình huống phức tạp, khó lường; trong khi nền kinh tế Việt Nam sau gần 30 năm đổi mới thành công, đã vượt qua ngưỡng nghèo (nước có mức thu nhập thấp), đang bước vào thời kỳ của nước có mức thu nhập trung bình - thời kỳ mà kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới đã cho thấy, vừa có cơ hội để trở thành nước công nghiệp phát triển, lại vừa có nguy cơ rủi ro rơi vào "bẫy của nước có mức thu nhập trung bình", luẩn quẩn ở trình độ "nước có mức thu nhập trung bình", không vượt lên thành nước công nghiệp phát triển được.

Cả tình huống bên trong lẫn bên ngoài đều đặt ra yêu cầu rất đặc biệt, rất hệ trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời kỳ 2011-2020. Tính chất "phát triển" của thời kỳ chiến lược này trở nên rất rõ ràng; khác hẳn với chiến lược "vượt qua khủng hoảng", dù sao cũng cũng đậm nét tình thế "cứu nguy" của thời kỳ chiến lược 1991-2000; và cũng rất khác với chiến lược "tạo tiền đề" để sự phát triển của thời kỳ chiến lược 2001-2010.

Thời kỳ chiến lược 2011-2020 mang đậm nét "phát triển" hàm ý rằng, tính "được - thua" trong cuộc cạnh tranh phát triển cùng thời đại, cùng các "cường quốc 5 châu" sẽ quyết định Việt Nam có rút ngắn được khoảng cách phát triển với các nước đi trước không, có "hóa rồng' được không, đã trở thành nhiệm vụ khách quan, mang tính lịch sử.

Với cách tiếp cận từ những mục tiêu dài hạn, mang tính chiến lược, triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2014-2015 không chỉ được đánh giá bằng những kết quả định lượng về chỉ tiêu tăng trưởng, lạm phát, nợ, cân đối ngân sách…, mà có lẽ điều còn quan trọng hơn là ở những tiêu chí về cải cách thể chế, tái cơ cấu nền kinh tế để chuyển sang một mô hình tăng trưởng kinh tế mới./.

PGS, TS. Bùi Tất Thắng

Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 1/2014