Theo đó, chỉ số hợp tác Việt Nam - Trung Quốc có mức tăng lớn nhất, 33 lần trong chỉ số hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác chiến lược là Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, New Zealand, ASEAN, Úc và Canada trong giai đoạn 1995 - 2012 trên 5 lĩnh vực: thương mại, đầu tư, giáo dục, du lịch và viện trợ chính thức (ODA). Điều này phản ánh rõ nét nhất sự liên kết ngày càng chặt chẽ của kinh tế 2 nước.

Từ một xuất phát điểm thấp năm 1995, hiện Trung Quốc đã vươn lên top 3 đối tác hàng đầu của Việt Nam trong hợp tác thương mại và du lịch. Tuy nhiên, Việt Nam đang ngày càng nhập siêu nhiều hơn từ Trung Quốc.

Bên cạnh đó, Singapore, Malaysia và Thái Lan nổi bật lên là những đối tác hàng đầu của khu vực. Bên cạnh đó, các nước ASEAN chưa có thế mạnh trong hợp tác giáo dục với Việt Nam (trừ Singapore) và cũng không phải là những nhà tài trợ ODA lớn nhất của Việt Nam.

Hợp tác với Mỹ, Nhật Bản cũng tăng trưởng cao, gấp 23 lần so với năm 1995. Do xuất phát điểm quan hệ hợp tác Việt – Mỹ rất thấp nên mới có mức tăng trưởng lớn như vậy. Cho nên, đến năm 2012, quan hệ Việt - Mỹ chỉ nhỉnh hơn các đối tác khác trong lĩnh vực giáo dục và rõ ràng quan hệ Việt – Mỹ còn rất nhiều tiềm năng để phát triển.

Trong khi, vào năm 1995, Nhật Bản đã được coi là đối tác quan trọng nhất của Việt Nam. Vào thời điểm đó, trừ giáo dục, Nhật Bản nằm trong top 3 đối tác quan trọng nhất trong 4 lĩnh vực còn lại. Thành tựu này không được duy trì đến năm 2012 do sự sụt giảm vị trí của hai lĩnh vực thương mại và du lịch. Tuy nhiên, với đầu tư và viện trợ ODA, Nhật Bản vẫn là một trong những đối tác hàng đầu của Việt Nam.

Nhìn chung, chỉ số hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác chiến lược trên có tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 20%/năm trong suốt giai đoạn 1995 – 2012, cao hơn hẳn chỉ số hợp tác giữa Việt Nam và các nước còn lại với khoảng 4,7% giai đoạn 1995 – 2005 và nhích lên 5,5% cho giai đoạn 2005 – 2012.

Theo các chuyên gia, số liệu này không nên đặt lên bàn cân để đánh giá chất lượng hợp tác của Việt Nam với các đối tác mà nên được nhìn nhận trên một quá trình hợp tác phát triển đối với từng quốc gia.

Ví dụ như: Sở dĩ mức tăng của EU không ấn tượng như những đối tác khác là do xuất phát điểm khá cao của EU với Việt Nam và xét về tổng thể, EU có sự hợp tác toàn diện nhất đối với Việt Nam.

Đánh giá chung về nghiên cứu Chỉ số hợp tác Việt Nam 1995- 2012, Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng nhận định, đây là một tài liệu chuyên môn giá trị, đã thống kê số liệu giữa Việt Nam với một số đối tác quan trọng trên những lĩnh vực hợp tác chính, đồng thời phân tích biến động, nhận định xu hướng và đưa ra những khuyến nghị chính sách bổ ích./.