Bài viết nêu bật những kết quả đạt được trong thu hút và sử dụng FDI, phân tích hạn chế và từ đó dự báo nguồn vốn này vào Việt Nam trong năm tới.

Tổng quan FDI toàn cầu

Báo cáo Đầu tư nước ngoài năm 2019 của Diễn đàn Thương mại và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) nhận xét: FDI toàn cầu năm 2018 đạt 1.300 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2017 (1.500 tỷ USD). Nguyên nhân quan trọng của tình trạng giảm sút FDI là việc khá nhiều công ty đa quốc gia (MNE) của Mỹ hồi hương từ nước ngoài để hưởng chính sách ưu đãi thuế của Chính phủ; hay việc một số nước phát triển giảm đầu tư ra nước ngoài làm cho FDI của các quốc gia này giảm khoảng 25%, còn 557 tỷ USD năm 2018. FDI vào các nước đang phát triển tăng 2% trong năm 2018, chiếm 54% vốn đầu tư toàn cầu (năm 2017 là 46%). Do đó, một nửa trong số 20 nền kinh tế thu hút FDI hàng đầu thế giới là các nước đang phát triển và chuyển đổi.

Năm 2019, FDI của các nước phát triển phục hồi khi hiệu ứng cải cách thuế của Mỹ giảm dần. Trong 2 quý đầu năm, hoạt động mua bán và sáp nhập (M&A) tăng 18%, do tác động từ việc Chính phủ Mỹ yêu cầu các MNEs của nước này thanh khoản các chi nhánh nước ngoài của họ. Tuy vậy, nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, xu hướng tăng FDI toàn cầu không cao do bị chi phối bởi các yếu tố, như: rủi ro địa chính trị, căng thẳng thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc leo thang và chính sách bảo hộ mậu dịch của một số quốc gia.

Nếu loại trừ các yếu tố, như: cải cách thuế, megadeals (hợp tác kinh doanh lớn) và dòng tài chính biến động, thì FDI trong giai đoạn 2008-2018 chỉ tăng bình quân 1%/năm so với 8%/năm giai đoạn 2000-2007 và 20%/năm trước năm 2000. Xu hướng giảm tốc độ tăng FDI toàn cầu do nhiều nhân tố, chủ yếu là tỷ lệ hoàn vốn đầu tư nước ngoài giảm và chính sách, môi trường đầu tư ít thuận lợi hơn.

Dự báo trung hạn và dài hạn cho thấy, tốc độ tăng trưởng tương đối của tiền bản quyền, phí cấp phép và thương mại dịch vụ trong kinh doanh quốc tế vượt xa vốn FDI; đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) rất lớn và tăng nhanh. Vì vậy, một phần đáng kể của đầu tư giữa các nước đang phát triển với nhau cuối cùng lại thuộc sở hữu của MNEs các nước phát triển.

Trong các nước tiếp nhận FDI, thì Hoa Kỳ vẫn là nước nhận vốn đầu tư lớn nhất, tiếp sau là Trung Quốc, Hồng Kông và Singapore. Lần đầu tiên, Việt Nam nằm trong top 20 nước thu hút FDI hàng đầu thế giới.

Việt Nam nằm trong top 20 nước thu hút FDI hàng đầu thế giới

FDI vào các nước đang phát triển ở châu Á tăng 3,9% năm 2018, đạt 512 tỷ USD, chiếm 39% FDI toàn cầu (năm 2017 là 33%). Triển vọng FDI vào khu vực này khá lạc quan, nhờ tốc độ phát triển kinh tế và môi trường đầu tư được cải thiện.

FDI vào Đông Nam Á đạt mức kỷ lục trong năm 2018 với 149 tỷ USD, tăng 3%, trong đó Singpore, Indonesia, Việt Nam, Thái Lan có mức tăng khá cao. Công nghiệp chế tạo, dịch vụ, bán buôn, bán lẻ, kỹ thuật số là những ngành thu hút được nhiều vốn FDI nhất ở các nước ASEAN.

FDI chủ yếu là đầu tư xuyên biên giới của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) thông qua việc thành lập dự án tại các nước tiếp nhận vốn đầu tư. Để thích ứng với sự thay đổi chuỗi giá trị toàn cầu trong thời đại kinh tế số, TNCs đã áp dụng phương thức mới có hiệu quả hơn để tiếp cận thị trường, như: thuê gia công, thuê dịch vụ, nhượng quyền, cấp phép và quản lý theo hợp đồng. Những hoạt động như vậy được gọi là “phương thức đầu tư xuyên biên giới không góp vốn” (NEM).

Hiện nay, TNCs đầu tư ra nước ngoài theo hai phương thức: (1) Góp vốn như đã được thực hiện ở Việt Nam trong 30 năm vừa qua với các hình thức chủ yếu: hợp đồng hợp tác kinh doanh, liên doanh và 100% vốn nước ngoài, M&A; (2) Không góp vốn theo NEM. Điển hình của NEM tại Việt Nam là Vingroup đã hợp tác với một số tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới, như: GM (Mỹ), Siemen (Đức) để sản xuất ô tô tại Nhà máy sản xuất ô tô Vinfast. Hai phương thức này có quan hệ với nhau. Một số nhà đầu tư áp dụng phương thức NEM trước, cho đến khi kinh doanh có lợi nhuận và đạt được đồng thuận với đối tác trong nước, thì chuyển sang phương thức góp vốn để tham gia quản trị doanh nghiệp.

Thu hút FDI vào Việt Nam năm 2019

Thu hút FDI là một mảng sáng của bức tranh kinh tế năm 2019 của Việt Nam. Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), tính đến ngày 20/12/2019, vốn FDI thực hiện đạt 20,38 tỷ USD, tăng 6,7% so với 2018. Có 3.833 dự án mới đăng ký với 16,75 tỷ USD, bằng 93,2%; 1.381 dự án điều chỉnh vốn với 5,8 tỷ USD, tăng 18,1%; 9.842 lượt góp vốn, mua cổ phần với 15,47 tỷ USD, tăng 56,4% so với cùng kỳ năm 2018, chiếm 40,7% tổng vốn đăng ký. Do vậy, tổng vốn đăng ký mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38,02 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2018.

Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19 ngành kinh tế của Việt Nam. Trong đó, chế biến, chế tạo với 24,56 tỷ USD, chiếm 66,6%; kinh doanh bất động sản với 3,88 tỷ USD, chiếm 10,2% vốn đăng ký; tiếp theo là bán buôn bán lẻ, khoa học và công nghệ…

Doanh nghiệp FDI có kim ngạch xuất khẩu (kể cả dầu thô) đạt 181,35 tỷ USD, tăng 4,2% và chiếm 68,8% kim ngạch xuất khẩu cả nước; kim ngạch nhập khẩu đạt 145,5 tỷ USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2018 và chiếm 57,4% kim ngạch nhập khẩu cả nước; xuất siêu gần 35,86 tỷ USD không những bù đắp được 25,96 tỷ USD nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước, mà còn tạo ra xuất siêu 9,9 tỷ USD.

126 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có dự án đầu tư tại Việt Nam. Hàn Quốc đứng đầu với vốn đăng ký 7,92 tỷ USD, Hồng Kông thứ hai với vốn đăng ký 7,87 tỷ USD (có 3,85 tỷ USD mua cổ phần của Công ty TNHH Vietnam Beverage tại Hà Nội), Singapore đứng thứ 3 với vốn đăng ký 4,18 tỷ USD, tiếp theo là Nhật Bản, Trung Quốc.

60 tỉnh thành phố có dự án FDI mới. Trong đó, Hà Nội đứng thứ nhất với 8,3 tỷ USD, TP. Hồ Chí Minh đứng thứ 2 với 7,0 tỷ USD, tiếp theo là Bình Dương, Đồng Nai, Bắc Ninh.

Tính lũy kế đến ngày 20/12/2019, cả nước có 30.827 dự án còn hiệu lực với vốn đăng ký 362,58 tỷ USD, vốn thực hiện 211,78 tỷ USD, bằng 58,4% vốn đăng ký còn hiệu lực. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19/21 ngành kinh tế, trong đó công nghiệp chế tạo với 214,2 tỷ USD, chiếm 59,1%; kinh doanh bất động sản với 58,4 tỷ USD, chiếm 16,1%; sản xuất, phân phối điện với 23,65 tỷ USD, chiếm 6,5% vốn đăng ký.

135 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Đứng đầu là Hàn Quốc với 67,71 tỷ USD, chiếm 18,7%; Nhật Bản đứng thứ hai với 59,34 tỷ USD, chiếm 16,4% vốn đăng ký; tiếp theo là Singapore, Đài Loan, Hồng Kông...

63 tỉnh, thành phố trong cả nước đều đã có dự án FDI. TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu với 47,34 tỷ USD, chiếm 13,1%; Bình Dương đứng thứ hai với 34,4 tỷ USD, chiếm 9,5% tổng vốn đầu tư; Hà Nội xếp thứ 3 với 34,1 tỷ USD, chiếm 9,4% tổng vốn đăng ký.

… và một số nhận xét

Năm 2019, vốn FDI thực hiện đạt 20,38 tỷ USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2018 là hợp lý. Trong điều kiện đầu tư trong nước đã phát triển, thì vốn FDI có thể tăng về số tuyệt đối, nhưng chỉ nên chiếm 22%-25% tổng vốn đầu tư xã hội.

Phân bổ vốn FDI vào các ngành, lĩnh vực kinh tế tiếp tục giữ tỷ trọng như những năm trước. Trong đó, có một số chuyển dịch tích cực đối với kinh doanh bất động sản do thị trường mở rộng, doanh nghiệp trong nước có tiềm lực mạnh hơn, nên một số nhà đầu tư nước ngoài liên doanh, liên kết chuyển giao công nghệ mới, phương thức kinh doanh mới cho doanh nghiệp trong nước.

Hoạt động M&A trở nên sôi nổi trong những năm gần đây, chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng vốn đăng ký: năm 2017 chiếm 17,02%; năm 2018 chiếm 27,78%; năm 2019 chiếm 56,4%. Đó là tín hiệu đáng mừng do hai nguyên nhân chính: Thứ nhất, quy mô doanh nghiệp trong nước đã lớn mạnh tạo ra nguồn cung dồi dào cho M&A; Thứ hai, chính sách mở cửa đối với thị trường chứng khoán với chủ trương nới “room” cho nhà đầu tư nước ngoài.

Tuy vậy, chất lượng và hiệu quả của FDI năm 2019 chưa đáp ứng được đòi hỏi của đất nước trong quá trình chuyển sang định hướng đổi mới, sáng tạo, khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng nền kinh tế số, tham gia cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0.

Cụ thể, quy mô trung bình mỗi dự án FDI quá nhỏ. Năm 2019, có 3.833 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với vốn đăng ký 16,75 tỷ USD, trung bình mỗi dự án chỉ khoảng 4,3 triệu USD vốn đăng ký. Một số địa phương còn thu hút cả những dự án 1-2 triệu USD, thậm chí dưới 1 triệu USD. Tất nhiên, tùy thuộc vào ngành, lĩnh vực để bàn về quy mô dự án. Đối với một số lĩnh vực dịch vụ, thì không đòi hỏi quy mô lớn, nhưng đối với sản xuất, chế biến, thì cần quan tâm đến quy mô dự án. Khi các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước đủ năng lực, các cấp chính quyền nên tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các dự án đó.

Bên cạnh đó, Việt Nam đang thiếu vắng dự án quy mô lớn. Nếu năm 2018, có một số dự án quy mô lớn, như: Thành phố thông minh tại Đông Anh, Hà Nội liên doanh với Nhật Bản 4,14 tỷ USD; Nhà máy sản xuất Polypropylene và kho ngầm chứa dầu mỏ hóa lỏng của Hàn Quốc đầu tư 1,2 tỷ USD tại Bà Rịa - Vũng Tàu, thì năm 2019, dự án có quy mô lớn nhất là 420 triệu USD.

Trong ngành chế biến, chế tạo chưa thu hút được dự án công nghệ tương lai, như: AI, blockchain, fintech, trung tâm R&D, nhất là ở hai trung tâm kinh tế lớn Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có tiềm lực khoa học và công nghệ lớn, dồi dào về lao động chất lượng cao.

Điều chỉnh tăng vốn chủ yếu là của các dự án nhỏ, không có dự án quy mô lớn như năm 2018 (ngoại trừ Công ty TNHH Laguna – Singapore điều chỉnh tăng vốn thêm 1,12 tỷ USD).

Dự báo FDI vào Việt Nam năm 2020

Theo SSI Research, tác động ngắn hạn từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung chủ yếu là gián tiếp, thông qua sự mất giá của đồng Nhân dân tệ, Bắc Kinh tăng cường kiểm soát vốn và tâm lý giá xuống trên thị trường chứng khoán. Việt Nam vẫn đang phát triển, nhưng quy mô sản xuất tương đối nhỏ trên thế giới, không nằm trong top 20, do đó Việt Nam đủ nhỏ để “đứng ngoài” cuộc tranh chấp thương mại của các nền kinh tế lớn, không bị ảnh hưởng tiêu cực nhiều trong ngắn hạn. Đồng tiền Việt Nam vẫn diễn biến tốt so với hầu hết các đồng tiền khác trong khu vực, chỉ mất giá 2,5% so với USD kể từ đầu năm 2019. Tuy vậy, cảnh giác không bao giờ thừa khi kim ngạch thương mại của Việt Nam với Mỹ và với Trung Quốc chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu.

Đối với FDI, hiện đang có nhiều nhà đầu tư Mỹ, châu Âu và châu Á chuyển xí nghiệp từ Trung Quốc về nước hoặc sang nước thứ ba. Việt Nam trở thành sự lựa chọn hàng đầu, khi hai năm gần đây đã có một số nhà máy chuyển từ Trung Quốc sang nước ta.

Khi Chính phủ Mỹ áp đặt mức thuế nhập khẩu 25% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, thì buộc doanh nghiệp nước này tìm kiếm thị trường khác để tiêu thụ số hàng hóa không thể xuất khẩu sang Mỹ, đồng thời gia tăng đầu tư ra nước ngoài để đối phó với các biện pháp của Mỹ. Việt Nam là nước láng giềng có tiềm năng lớn, nên sẽ được các doanh nghiệp Trung Quốc tìm kiếm cơ hội để mở rộng quy mô thương mại hai chiều, đồng thời tăng nhanh các dự án đầu tư trực tiếp. Vì vậy, cần nghiên cứu để nhận biết thách thức và cơ hội mới, có đối sách thích hợp với các doanh nghiệp Trung Quốc theo hướng lựa chọn, sàng lọc đảm bảo lợi ích quốc gia trong việc hợp tác về thương mại và đầu tư giữa hai nước.

Trong bối cảnh quốc tế và khu vực, việc cộng đồng nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức quốc tế đánh giá cao môi trường kinh doanh và đầu tư của Việt Nam, với một số hiệp định thương mại tự do thế hệ mới bắt đầu có hiệu lực; trên cơ sở định hướng, chính sách mới về FDI, thì triển vọng năm 2020 là rất sáng sủa. Dự báo:

- Tốc độ tăng vốn FDI thực hiện 7%-8%, đạt 23-24 tỷ USD, chiếm 22%-23% tổng vốn đầu tư xã hội.

- Đầu tư từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và châu Á vẫn gia tăng; đồng thời, đầu tư từ Mỹ, Đức, Pháp, Anh và một số nước châu Âu khác vào công nghệ hiện đại, công nghệ tương lai, giáo dục và đào tạo, R&D với nhiều dự án lớn sẽ gia tăng.

- Số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ngoài đầu tư tại Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển ở những ngành thâm dụng lao động, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, dịch vụ tư vấn, nhưng sẽ có nhiều tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới đầu tư những dự án quy mô hàng tỷ USD trong công nghiệp công nghệ cao, công nghệ tương lai, xây dựng thành phố thông minh, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội.

- Dự án FDI vào các địa phương được thu hút phù hợp với trình độ phát triển của từng tỉnh, thành phố với chính sách ưu đãi phù hợp với danh mục dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư.

Thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20/08/2019 của Bộ Chính trị về hoàn thiện thể chế, chính sách về đầu tư nước ngoài ưu đãi theo xu hướng phát triển, tiếp cận chuẩn mực tiên tiến quốc tế và hài hoà với các cam kết quốc tế, đồng bộ, nhất quán, công khai, minh bạch để thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư, đặt trụ sở và thành lập các trung tâm R&D, trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam, tăng liên kết giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, khuyến khích chuyển giao công nghệ và quản trị cho doanh nghiệp Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc khẳng định: “Chính phủ sẽ tăng tốc cải thiện thủ tục hành chính, xây dựng thể chế kinh tế sao cho các chủ thể kinh tế đều có quyền tham gia vào hoạch định kế hoạch phát triển và chính sách, tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng mềm, số hóa để chuyển đổi nền kinh tế sang số hóa, đổi mới cơ chế tuyển dụng, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực, người tài để tận dụng Cách mạng Công nghiệp 4.0 làm động lực tăng trưởng đất nước”./.

Tài liệu tham khảo

1. Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019). Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2019

2. UNCTAD (2019). World Investment Report 2019