Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Bình Minh đã nhấn mạnh điều này tại Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển 2021 với chủ đề “Kết nối Địa phương – Doanh nghiệp, Nắm bắt cơ hội” chiều ngày 26/4/2021.

Diễn đàn Nhịp cầu Phát triển Việt Nam năm 2021 được Bộ Ngoại giao và Vietnam Economic Times đồng phối hợp chủ trì tổ chức. Sự kiện có ý nghĩa quan trọng khi Việt Nam trải qua 33 năm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đang đứng trước cơ hội đón làn sóng thu hút FDI lần thứ 4 với những “đại bàng” công nghệ hứa hẹn đầy tiềm năng.

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh - Ảnh: Quang Phúc

33 năm phát triển và thu hút FDI, đã có 33.070 dự án với hơn 384 tỷ USD vốn đăng ký

Phát biểu chào mừng tại Diễn đàn, ông Phạm Bình Minh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ đánh giá, Diễn đàn là sáng kiến mới và hiệu quả nhằm tạo cầu nối giữa cộng đồng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với Chính phủ và các địa phương, hướng tới thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và sự phát triển bền vững của Việt Nam.

Phó Thủ tướng cho rằng, Diễn đàn càng có ý nghĩa khi chúng ta vừa kết thúc Kế hoạch Phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 và Chiến lược Phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020, đồng thời vừa trải qua một năm 2020 đầy sóng gió với rất nhiều khó khăn chồng chất, vừa phải đối mặt với căng thẳng thương mại giữa các nước lớn, kinh tế thế giới suy thoái, thương mại sụt giảm, vừa phải chống chọi với những tác động và ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, thiên tai bão lũ, biến đổi khí hậu…

Mặc dù vậy, năm 2020 được xem là năm thành công trong giai đoạn 5 năm 2016-2020 với những kết quả, thành tích đáng ghi nhận với mức tăng trưởng dương 2,91%. Theo nhiều cơ quan thông tin kinh tế quốc tế đáng tin cậy như Finance Brand, Bộ phận phân tích thông tin kinh tế (EIU) thuộc Tạp chí Kinh tế của Anh (The Economist), Việt Nam là quốc gia có mức tăng trưởng thương hiệu quốc gia nhanh nhất trên thế giới với mức tăng 9 bậc lên vị trí thứ 33 trong Top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới và trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn ở châu Á.

Phó Thủ tướng chỉ rõ, từ năm 1987, song hành cùng với quá trình Đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Luật đầu tư nước ngoài đã được ban hành. Trải qua 3 làn sóng đầu tư FDI, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã hiện diện ở nhiều ngành, lĩnh vực quan trọng và đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Làn sóng thứ nhất trong những năm 1990-1992; làn sóng thứ hai vào những năm 2000 với Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Mỹ được ký kết và làn sóng thứ 3 với số lượng FDI thực sự bùng nổ sau khi Việt Nam gia nhập WTO năm 2006 và hội nhập sâu với khu vực và quốc tế.

Tính đến tháng 12/2020, trải qua 33 năm phát triển và thu hút FDI, đã có 33.070 dự án FDI, vốn đăng ký hơn 384 tỷ USD; vốn thực hiện khoảng 231,86 tỷ USD, bằng 60,4% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp và tổng giá trị xuất khẩu của cả nước; và số thu nộp ngân sách nhà nước cũng tăng đều qua các năm. Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành một trong những động lực quan trọng thúc đấy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam với mức đóng góp vào GDP tăng đáng kể.

“Chỉ tính riêng giai đoạn 2016-2020, vốn đăng ký và vốn thực hiện tăng mạnh so với giai đoạn trước đó, đặc biệt là năm 2020, mặc dù, tình hình rất khó khăn, nhưng các nhà đầu tư vẫn tiếp tục tin tưởng vào thị trường và môi trường đầu tư của Việt Nam, triển khai mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây chính là “lá phiếu” ủng hộ Chính phủ, bộ ngành và địa phương tiếp tục nỗ lực cải cách, xây dựng hệ thống hành chính hiện đại, phục vụ cộng đồng doanh nghiệp chung tay vì một Việt Nam thịnh vượng”, Phó Thủ tướng nói.

Cũng tại Diễn đàn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khẳng định, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) phục vụ phát triển kinh tế- xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong công cuộc Đổi mới.

Hiện nay, khu vực FDI đóng góp khoảng 20% GDP, trên 50% giá trị sản xuất công nghiệp và khoảng 70% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tạo việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động. Nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới đang đầu tư lâu dài và gặt hái thành công ở Việt Nam.

Ngay cả khi kinh tế thế giới và Việt Nam bị tác động rất tiêu cực của đại dịch Covid-19, thu hút FDI vẫn duy trì kết quả khả quan, phản ánh niềm tin của giới đầu tư quốc tế đối với Việt Nam như một điểm đến an toàn và hấp dẫn.

Thu hút FDI: Cần đổi mới mạnh mẽ tư duy, từ thế bị động sang chủ động

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cũng chỉ rõ rằng, mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng khu vực đầu tư nước ngoài cũng còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục.

Cụ thể là mức độ kết nối, lan tỏa của khu vực đầu tư nước ngoài đến khu vực đầu tư trong nước còn thấp, thu hút và chuyển giao công nghệ từ khu vực đầu tư nước ngoài đến khu vực đầu tư trong nước còn chưa đạt được như kỳ vọng; Thu hút đầu tư nước ngoài vào một số ngành, lĩnh vực ưu tiên và từ các tập đoàn đa quốc gia còn hạn chế; Còn hiện tượng một số doanh nghiệp chưa thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các quy định pháp luật về đầu tư hoặc chưa nghiêm túc thực hiện quy định về bảo vệ môi trường; Hiệu quả sử dụng các nguồn lực và các nguồn tài nguyên của nhiều dự án đầu tư nước ngoài chưa thực sự hiệu quả và bền vững…

Những tồn tại, hạn chế nêu trên đã được nhận diện. Chính phủ và các bộ, ngành liên quan đang thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và quyết liệt nhằm khắc phục các tồn tại này.

Làm rõ hơn nhận định trên, Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn chỉ rõ rằng, thực tế việc thu hút, quản lý đầu tư FDI ở Việt Nam vẫn còn những hạn chế. Đó là, đầu tư FDI gắn với công nghệ cao còn ít; liên kết với các khu vực kinh tế trong nước thiếu chặt chẽ, hiệu ứng lan tỏa về năng suất và công nghệ còn hạn chế. Nhiều dự án FDI có hiệu quả thấp, thiếu bền vững, chưa tuân thủ nghiêm túc các chính sách, pháp luật về đầu tư, tài chính, lao động, công nghệ, môi trường...

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn

Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức đối với thu hút FDI, nhất là tác động của công nghệ trí tuệ nhân tạo, tự động hóa trình độ cao, sản xuất thông minh...

Việt Nam đang bước sang một giai đoạn phát triển mới với mục tiêu, tầm nhìn phát triển đến năm 2030 trở thành nước thu nhập trung bình cao có công nghiệp hiện đại, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Để đạt được những mục tiêu này, đòi hỏi Việt Nam phải tăng trưởng nhanh và bền vững, liên tục với tốc độ 6,5-7%/năm trong 10-20 năm tới. Muốn vậy, một trong những điều kiện tiên quyết là phải huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và quốc tế cho phát triển, trong đó vốn FDI tiếp tục đóng vai trò quan trọng.

“Thành tựu về thu hút FDI trong 35 năm qua là những bài học quý báu, cho thấy cách tiếp cận linh hoạt, sáng tạo, đồng thời tận dụng tốt các cơ hội và phát huy lợi thế của riêng mình là chìa khóa để Việt Nam tiếp tục vươn lên. Do đó, chính sách thu hút FDI thời gian tới phải đổi mới mạnh mẽ sang tư duy chủ động, thu hút có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí hàng đầu”, Bộ trưởng chia sẻ quan điểm.

4 giải pháp thu hút FDI trong bối cảnh mới của Chính phủ

Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài. Theo đó việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới phải có chọn lọc hơn, hướng tới việc lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu.

Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI ngày càng khốc liệt, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh chỉ rõ, hoạt động xúc tiến và thu hút đầu tư cả trong nước và nước ngoài còn gặp khó khăn do những tác động từ đại dịch Covid-19.

“Chúng ta phải thích ứng, chủ động, sáng tạo và đón kịp dòng chảy của làn sóng FDI thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, đưa được dòng vốn chất lượng cao về Việt Nam”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

Để thu hút thành công nguồn vốn FDI trong bối cảnh mới, Phó Thủ tướng cho biết, Chính phủ sẽ tập trung giải quyết 4 vấn đề.

Thứ nhất, quyết tâm giữ vững môi trường vĩ mô, chính trị xã hội ổn định. "Đây chính là một lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động khó lường và đại dịch Covid-19 vẫn còn là “ẩn số” khó đoán định", Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

Thứ hai, tập trung cải thiện chất lượng thể chế, chính sách pháp luật theo hướng tăng cường tính minh bạch, lành mạnh, an toàn và hiệu quả, nâng cao năng lực quản trị Nhà nước và quản lý kinh tế vĩ mô nhằm thực hiện chủ trương hợp tác đầu tư nước ngoài có ưu tiên, chọn lọc gắn với mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.

Khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp trong nước liên doanh, liên kết, góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong các dự án sử dụng công nghệ cao, công nghệ mới, công nghiệp hỗ trợ... để tiếp thu thị trường, kênh phân phối, làm chủ công nghệ, quản lý và phát triển các sản phẩm quốc gia.

Đồng thời, hoàn thiện chính sách ưu đãi, khuyến khích đầu tư trên nguyên tắc gắn với cơ chế kiểm tra, giám sát để đảm bảo doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thực hiện đúng cam kết đầu tư, tuân thủ đúng tiêu chí, điều kiện hưởng ưu đãi.

“Tạo cơ chế kết nối các hoạt động xúc tiến về đầu tư, thương mại, du lịch nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hoàn thiện cơ chế phân công, phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài giữa các cơ quan trung ương và địa phương”, Phó Thủ tướng khẳng định.

Thứ ba, ưu tiên đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng, giúp tạo ra các kết nối thông minh, hiệu quả, giảm chi phí giao dịch, nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, nhà đầu tư và nền kinh tế, nhất là tính minh bạch. Đặc biệt, Chính phủ khuyến khích tăng cường đầu tư mạnh mẽ cho giáo dục và khoa học công nghệ, lấy nền tảng con người và năng lực khoa học công nghệ làm động lực của tăng trưởng trong những thập niên tới.

Thứ tư, song song với việc thu hút đầu tư, các địa phương sẽ tổ chức, hỗ trợ hiệu quả, kịp thời cho các nhà đầu tư triển khai xây dựng các dự án với tốc độ nhanh nhất, thời gian ngắn nhất, hiệu quả nhất thông qua cải cách môi trường kinh doanh, thủ tục hành chính và đặc biệt là những thủ tục về đất đai và giải phóng mặt bằng.

“Để từ đó giảm chi phí đầu tư, chi phí cơ hội, củng cố niềm tin của các nhà đầu tư, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp trong nước lớn mạnh để liên kết tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản xuất, phân phối toàn cầu”, Phó Thủ tướng nói.

Khẳng định rằng, trong thời gian tới, khu vực FDI vẫn tiếp tục là một động lực quan trọng, góp phần hiện thực hóa khát vọng, phồn vinh của Việt Nam, trong đó Chính phủ đóng vai trò nhà kiến tạo, phát triển, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh khẳng định: “Chính phủ Việt Nam hoan nghênh các nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam làm ăn lâu dài, tôn trọng pháp luật và đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững của Việt Nam”./.