Sau hơn 20 năm thành lập và phát triển, các vùng kinh tế trọng điểm đã đạt được những kết quả khá toàn diện

Mô hình cũ đang có nhiều hạn chế

Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm tại cuộc họp trực tuyến ngày 6/12/2014, sau hơn 20 năm thành lập và phát triển, các vùng kinh tế trọng điểm đã đạt được những kết quả khá toàn diện, tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế cao hơn bình quân chung cả nước, tốc độ đô thị hóa nhanh, tổng kim ngạch xuất khẩu chiếm hơn 90%, thu ngân sách nhà nước chiếm trên 89% và thu hút đầu tư FDI chiếm 82% số vốn cả nước... đã trở thành những trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội của các vùng, lãnh thổ, là đầu mối giao lưu trong nước và quốc tế, tạo động lực phát triển cho các vùng và cả nước.

Song, thực tế hiện nay, ở Việt Nam đang tồn tại “63 vùng kinh tế”, tương ứng với 63 tỉnh, thành. Vì thế, không gian kinh tế vùng bị chia cắt và thu hẹp, nhiều cụm ngành kinh tế (cluster) và sản phẩm thế mạnh, mà các tỉnh có lợi thế chung không được “liên kết” với nhau, hoặc lợi thế so sánh của từng tỉnh không được phát huy, mà còn cạnh tranh cục bộ lẫn nhau, dẫn đến chuỗi giá trị ngành hàng bị cắt khúc; đầu tư trùng lắp, tính gia tăng giá trị thấp, suất đầu tư cao do không tận dụng được “lợi thế dùng chung” trên cơ sở phân công trong nội bộ vùng và liên vùng.

Hiện nay, Việt Nam đã phân chia thành 04 vùng kinh tế trọng điểm là: (1) Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, gồm 8 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh; (2) Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam gồm 8 tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang; (3) Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; (4) Vùng Kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long, gồm 4 tỉnh, thành phố: Cần Thơ, An Giang, Cà Mau và Kiên Giang.

Nguyên nhân là do công tác điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm hiện nay vẫn còn một số tồn tại, hình thức nên hiệu quả hoạt động chưa cao; chưa giải quyết kịp thời một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn, các việc có tính chất liên vùng; việc liên kết, phối hợp giữa các địa phương chưa có tính lâu dài, phạm vi liên kết hạn chế, tổ chức triển khai các liên kết chậm, chưa thực sự kết nối và phát huy được tiềm năng phát triển của các vùng.

Ở các vùng kinh tế trọng điểm đều chưa có bộ máy thể chế vùng, mà mới chỉ hình thành ban chỉ đạo phát triển. Cụ thể, đối với các vùng kinh tế trọng điểm có ban chỉ đạo, văn phòng ban chỉ đạo và tổ công tác.

Đây thực chất là cơ quan chịu trách nhiệm theo dõi kiểm tra, đôn đốc, chỉ đạo thực hiện các quy chế chính sách ban hành cho các vùng; kiểm tra, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm cho hoạt động của các vùng.

Với chức năng nhiệm vụ quy định như hiện nay, chúng không phải là hệ thống cơ quan có chức năng quản lý, điều tiết, tổ chức các hoạt động phát triển của các vùng bao gồm nhiều địa phương mang tính hành chính ghép lại một cách cơ học.

Do đó, bộ máy này không thể là một cơ quan tiếp nhận chính sách và tổ chức thực thi chính sách mang tính toàn vùng.

Đồng thời, cũng không có khả năng xây dựng định hướng, chiến lược, quy hoạch, hoạch định những chính sách riêng biệt thống nhất cho toàn vùng. Cơ quan này cũng không thể đại diện cho vùng để điều phối, hay phối hợp hoạt động của địa phương, bộ ngành có liên quan, mà cũng không có khả năng thực hiện công việc này.

Mô hình quản lý và điều phối mới gồm 3 cấp

Để khắc phục các hạn chế, Thủ tướng Chính phủ vừa quyết định thành lập tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm giai đoạn 2015-2020 trên cơ sở tổ chức lại tổ chức điều phối phát triển các vùng hiện có.

Theo đó, tổ chức điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm gồm 3 cấp: (i) Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm (Ban Chỉ đạo); (ii) Hội đồng vùng kinh tế trọng điểm (Hội đồng vùng); (iii) Tổ điều phối của các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong vùng kinh tế trọng điểm (tổ điều phối cấp bộ và tổ điều phối cấp tỉnh).

Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm là tổ chức phối hợp liên ngành giúp Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu chỉ đạo, đôn đốc, phối hợp giải quyết các vấn đề quan trọng có tính chất liên ngành, liên vùng liên quan đến hoạt động điều phối phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.

Trưởng Ban Chỉ đạo là Phó Thủ tướng Chính phủ. Phó trưởng ban thường trực là Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

Các thành viên Ban Chỉ đạo gồm thứ trưởng hoặc tương đương của các bộ và cơ quan ngang bộ (Kế hoạch và Đầu tư, Giao thông Vận tải, Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Tài chính, Giáo dục và Đào tạo, Y tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Văn phòng Chính phủ) và Chủ tịch Hội đồng vùng.

Hội đồng vùng là tổ chức kết nối giữa Ban Chỉ đạo với các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm và chỉ đạo, điều phối các liên kết trong vùng.

Hội đồng vùng có nhiệm vụ chỉ đạo và tổ chức phối hợp các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm thực hiện các quy hoạch phát triển của vùng kinh tế trọng điểm; theo dõi quá trình xây dựng, điều chỉnh quy hoạch của địa phương trong vùng... Chức danh Chủ tịch Hội đồng này được thực hiện luân phiên.

Nguyên tắc điều phối phát triển vùng kinh tế trọng điểm là: sự phát triển kinh tế của vùng xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp/thị trường , lấy hình thành cụm liên kết ngành làm trọng tâm; tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi giữa các bên tham gia phát triển vùng.../.