e-ISSN: 2734-9365

Trang chủ/Dự báo kinh tế

Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển

08:17 | 16/02/2021 Print
- Để tận dụng được các cơ hội và thực hiện khát vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045, Việt Nam cần tạo được sự bứt phá trong triển khai các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.

Trọng tâm trong giai đoạn tới là nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực công đi đôi với phát triển đồng bộ các loại thị trường, khuyến khích đổi mới sáng tạo, khai thác có hiệu quả công nghệ số, tăng cường kết nối và nâng cao tính tự cường và khả năng chống chịu của nền kinh tế.

Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng đã được tích cực triển khai trong giai đoạn 2011-2020 và mang lại nhiều chuyển biến đáng ghi nhận. Tuy nhiên, để tận dụng được các cơ hội và thực hiện khát vọng trở thành nước phát triển vào năm 2045, Việt Nam cần tạo được sự bứt phá trong triển khai các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng.

Việt Nam cần tạo được sự bứt phá trong triển khai các nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế

KẾT QUẢ GIAI ĐOẠN 2011-2020

Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 2011-2020. Thực hiện Quyết định của 339/QĐ-TTg, ngày 19/2/2013 của Thủ tướng chính phủ (Kế hoạch tổng thể về chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh trong giai đoạn 2013-2020) và Nghị quyết số 27/NQ-CP, ngày 21/2/2017 (Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 05-NQ/TW, ngày 01/11/2016 về chủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động (NSLĐ), sức cạnh tranh của nền kinh tế và Nghị quyết 24/2016/QH14, ngày 08/01/2016 về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016-2020)... chương trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đã tạo sự chuyển biến về tư duy và hành động trong xây dựng và chỉ đạo thực hiện chính sách.

Chương trình đã làm thay đổi nhận thức của các cấp, các ngành trong hoạch định chính sách, trong đó hướng nhiều hơn đến các chỉ tiêu về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Đến nay, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận.

Một là, nền tảng kinh tế vĩ mô được củng cố vững chắc hơn, đà tăng trưởng dần được cải thiện

Giai đoạn 2016-2020, các cân đối kinh tế vĩ mô được đảm bảo và nền tảng vĩ mô được củng cỗ vững chắc. Tốc độ tăng trưởng được duy trì, lạm phát được kiểm soát; tỷ lệ nợ công và áp lực trả nợ hàng năm giảm; hạ tầng tài chính quốc gia được củng cố, lòng tin thị trường được tăng cường, hệ số tín nhiệm quốc gia tăng… qua đó tạo tiền đề để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn. Cải thiện khả năng chống chịu và ứng phó của nền kinh tế với các cú sốc bên ngoài; đồng thời, tạo thêm dư địa để thực hiện tốt hơn các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội.

Tăng trưởng kinh tế từng bước được cải thiện, đạt mức tăng khá trong những năm vừa qua (Hình 1). Bình quân 4 năm 2016-2019 đạt mức 6,8% (cao hơn tốc độ tăng bình quân 5,91%/năm của giai đoạn 2011-2015), đạt mục tiêu tăng trưởng bình quân 6,5%-7 % của Kế hoạch 5 năm 2016-2020). Riêng năm 2020, do ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, tốc độ tăng trưởng giảm nhiều so với năm 2019, đạt 2,91%, nhưng Việt Nam vẫn là một trong số rất ít quốc gia duy trì mức tăng trưởng dương trong và thuộc nhóm nước tăng trưởng cao nhất thế giới.

Lạm phát giảm từ mức bình quân 7,65% giai đoạn 2011-2015 xuống 3,14% bình quân giai đoạn 2016-2020[1]. Lạm phát cơ bản bình quân cũng được duy trì ở mức thấp, năm 2019 là 2,01%; năm 2020 là 2,31%; bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 1,81%, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 5,15%.

Hai là, chất lượng tăng trưởng từng bước được nâng cao, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Cách thức và chất lượng tăng trưởng liên tiếp được cải thiện. NSLĐ tăng đều qua các năm: năm 2016 tăng 5,3%; năm 2017 tăng 6%; năm 2018 tăng 5,55%; năm 2019 tăng 6,28%; năm 2020 tăng 4,9%, NSLĐ theo giá hiện hành năm 2020 đạt 117,4 triệu đồng người (Hình 2).

Tăng trưởng kinh tế dựa nhiều hơn vào gia tăng năng suất. Đây là điểm nổi bật nhất trong thay đổi cách thức tăng trưởng trong giai đoạn 2016-2020. NSLĐ giai đoạn 2011-2015 tăng 19,6%, trong đó NSLĐ nội ngành tăng 14%, năng suất do chuyển dịch cơ cấu tĩnh tăng 5% và do chuyển dịch cơ cấu động là 0,6%. NSLĐ giai đoạn 2016-2020 ước tính tăng 26,2%; trong đó, NSLĐ nội ngành tăng 16,6%; năng suất do chuyển dịch cơ cấu tĩnh là 9,4%; và do chuyển dịch cơ cấu động là 0,2%.

Tăng trưởng kinh tế dần dịch chuyển sang chiều sâu, trên cơ sở ứng dụng khoa học và công nghệ (KHCN) và đổi mới sáng tạo. Mức đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng kinh tế ngày một lớn (Hình 3). Tính chung cả giai đoạn 2011-2015, đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP là 33,58%; giai đoạn 2016-2020, đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế tăng lên đáng kể, ước đạt 45,21 % (vượt mục tiêu đặt ra là đóng góp của TFP vào tăng trưởng 5 năm giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 30%-35%).

Hiệu quả đầu tư được cải thiện mạnh mẽ trong giai đoạn 2011-2019. Chỉ ICOR, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn đầu tư giảm dần, từ 6,42 năm 2016 xuống 6,11 năm 2017; 5,98 năm 2018 và 6,08 năm 2019 (Hình 4). Bình quân giai đoạn 2016-2019, hệ số ICOR đạt 6,13, thấp hơn so với hệ số 6,25 của giai đoạn 2011-2015. Riêng năm 2020, do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19, hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế bị đình trệ, các dự án công trình hoàn thành đưa vào sử dụng chưa phát huy được năng lực, nên ICOR năm 2020 đạt 14,28; bình quân giai đoạn 2016-2020 hệ số ICOR đạt 7,04.

Giải pháp phát triển khu vực kinh tế tư nhân đã bước đầu có kết quả, góp phần gia tăng vai trò của khu vực tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu vốn đầu tư trong tổng đầu tư toàn xã hội dịch chuyển tích cực theo hướng giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực nhà nước (Hình 5), từ mức trung bình 39,04% giai đoạn 2011-2015 xuống còn 34,34% giai đoạn 2016-2020, tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ khu vực ngoài nhà nước từ mức 38,26% giai đoạn 2011-2015 lên 42,7% giai đoạn 2016-2020; kéo theo sự dịch chuyển tích cực trong cơ cấu kinh tế theo hướng khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh hơn trung bình giai đoạn 2011-2015 đạt 6,14% lên mức trung bình 6,7% giai đoạn 2016-2019 và cải thiện tỷ trọng đóng góp vào GDP…

Ba là, cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm trong nền kinh tế được đẩy mạnh và đạt được nhiều kết quả tích cực

(1) Cơ cấu lại ngân sách nhà nước (NSNN) và các tổ chức tín dụng (TCTD) được tích cực triển khai, góp phần củng cố nền tảng tài chính vĩ mô, tạo điều kiện để Chính phủ có dư địa để thực hiện các giải pháp tài chính, tín dụng hỗ trợ doanh nghiệp (DN) và người dân dưới tác động của đại dịch:

- Cơ cấu lại NSNN đã đạt được những thay đổi tích cực về quy mô[2] và cơ cấu thu, chi ngân sách. Cơ cấu thu bền vững hơn, tăng tỷ trọng thu nội địa[3]. Giảm tỷ trọng chi thường xuyên và tăng tỷ trọng chi đầu tư[4]. Bội chi ngân sách từng bước được kiềm chế, cơ cấu lại theo hướng bền vững, giảm mạnh tỷ lệ nợ công từ mức 63,7% GDP cuối năm 2016 xuống khoảng 55% GDP cuối năm 2019. Năm 2020, do bội chi NNSN tăng nên nợ công khoảng 56,8% GDP, nợ chính phủ khoảng 50,8% GDP, nợ nước ngoài quốc gia khoảng 47,9% GDP (trong giới hạn an toàn theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội là tỷ lệ bội chi/GDP năm 2015 là 6,11%; năm 2016 là 5,52%).

Các mục tiêu cơ cấu lại các TCTD cơ bản hoàn thành. Đến nay, các ngân hàng cơ bản đáp ứng tỷ lệ an toàn vốn theo quy định áp dụng tiêu chuẩn Basel II tại Việt Nam[5]. Tình trạng sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống các tổ chức tín dụng đã được xử lý một bước, tình trạng thao túng, chi phối ngân hàng cơ bản được kiểm soát.

Hệ thống các TCTD đã được củng cố một bước, nâng cao hơn năng lực quản trị; xử lý nợ xấu tại các TCTD đã được đẩy nhanh thực hiện một cách thực chất, hiệu quả hơn[6]; lãi suất cho vay trung bình giảm (từ năm 2017 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm 1,5%-2%/năm các mức lãi suất điều hành, giảm 0,8%-1,25%/năm trần lãi suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 2%/năm trần lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên (hiện ở mức 5%/năm).

Trong đó, những tháng đầu năm 2020, để hỗ trợ nền kinh tế đối phó với dịch Covid-19, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm lãi suất 02 lần liên tiếp (ngày 17/3 và 13/5/2020) với quy mô cắt giảm tương đối mạnh trong nhiều năm trở lại đây.

Theo số liệu của IMF, lãi suất cho vay của Việt Nam chỉ cao hơn khoảng 1%-2%/năm so với các nước phát triển nhất ASEAN (có khác biệt lớn về vĩ mô, cấu trúc thị trường tài chính), nếu so với các nước có trình độ phát triển tương đồng, như: Indonesia (9,41%), Myanmar (14,5%), Bangladesh (7,79%) và Ấn Độ (9,05%), thì lãi suất Việt Nam chỉ ở mức trung bình), dòng vốn tín dụng chuyển dịch nhiều hơn vào các ngành sản xuất.

(2) Cơ cấu lại đầu tư công và DN nhà nước (DNNN) được tập trung triển khai và đạt một số kết quả ban đầu tích cực. Thể chế đầu tư công từng bước được hoàn thiện. Kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động đầu tư công được nâng cao, dần khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải và giải quyết nợ đọng xây dựng cơ bản. Nguồn vốn đầu tư công được tập trung đầu tư cho các dự án quan trọng quốc gia, các dự án hạ tầng thiết yếu, các công trình lớn có tính kết nối, lan tỏa, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế.

Cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng vốn đầu tư của nhà nước trong tổng vốn đầu tư xã hội xuống mức phù hợp (Hình 6). Tỷ trọng này giảm dần từ 40,4% năm 2013 xuống 37,5% năm 2016, còn 33,3% năm 2018, nhưng dự kiến tăng cao trong năm 2020 để đảm bảo sự can thiệp hợp lý của nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế bị tác động bởi đại dịch.

Cơ cấu lại DNNN được đẩy mạnh và thực chất hơn so với giai đoạn trước và được thực hiện một cách công khai, minh bạch, theo cơ chế thị trường, từ đó số lượng DNNN được thu gọn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Lũy kế giai đoạn 2016 - tháng 8/2020, đã có 177 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa, với tổng giá trị là 443.503 tỷ đồng, (giá trị vốn nhà nước là 207.116 tỷ đồng); thoái 25.669 tỷ đồng, thu về 172.917 tỷ đồng (gấp 6,8 lần giá trị sổ sách). Tổng số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn từ năm 2016 đến 8/2020 đạt khoảng 211.500 tỷ đồng, gấp 2,7 lần tổng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn của cả giai đoạn 2011-2015 (khoảng 78.000 tỷ đồng).

Mô hình quản lý, giám sát DNNN và vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại DN dần được hoàn thiện. Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại DN được thành lập nhằm từng bước tách bạch chức năng quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước. Tổng giá trị vốn chủ sở hữu nhà nước được bảo toàn và phát triển, tỷ lệ DNNN có lãi tăng, một số DNNN yếu kém đã trở lại hoạt động[7].

(3) Cơ cấu lại các ngành kinh tế được thực hiện theo hướng tăng cường áp dụng khoa học, công nghệ; tổ chức lại sản xuất theo chuỗi liên kết, hình thành cơ cấu ngành, nội bộ ngành hợp lý hơn, thúc đẩy tăng năng suất

- Cơ cấu ngành công nghiệp đã dịch chuyển theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP từ 14,3% năm 2016 lên ước hoảng 16,9% năm 2020, có sự dịch chuyển sang các ngành thâm dụng công nghệ. Một số ngành công nghiệp mũi nhọn đã có tốc độ phát triển đột phá. Ngành điện tử đã trở thành ngành công nghiệp lớn, chiếm 26,8% trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp và là ngành xuất khẩu lớn nhất; ngành công nghiệp thực phẩm lớn thứ hai với tỷ trọng khoảng 13,2%; ngành công nghiệp dệt may đứng thứ ba với tỷ trọng khoảng 8,5%. Công nghiệp công nghệ thông tin có tốc độ tăng trưởng cao.

- Sản xuất nông nghiệp có sự chuyển hướng tập trung vào những ngành có giá trị gia tăng cao hơn và có thị trường xuất khẩu đa dạng hơn. Nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao xuất hiện, đầu tư của DN vào nông nghiệp gia tăng. KHCN được ứng dụng rộng rãi hơn. Đóng góp của KHCN là trên 30% giá trị gia tăng của sản xuất nông nghiệp.

Cơ cấu lại khu vực dịch vụ được thúc đẩy theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm. Các ngành có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng KHCN cao được tập trung phát triển. Ngành du lịch có nhiều chuyển biến tích cực.

Bốn là, các loại hình thị trường yếu tố sản xuất được thúc đẩy hình thành và phát triển đồng bộ

- Quy mô và cơ cấu thị trường tài chính có sự điều chỉnh hợp lý hơn giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường vốn cổ phiếu và trái phiếu, thị trường trái phiếu chính phủ và trái phiếu DN, giữa dịch vụ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng.

- Thể chế phát triển thị trường quyền sử dụng đất đã từng bước được hoàn thiện, huy động được nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội và hoạt động bền vững hơn. Công tác quản lý đất đai đã có nhiều chuyển biến.

- Thể chế và cơ cấu thị trường lao động đã có một số tiến bộ. Các giải pháp phát triển thị trường được chú trọng thực hiện; tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, khớp nối cung cầu trên thị trường; tăng cường cập nhật hệ thống thông tin thị trường lao động. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp đang được rà soát, sắp xếp và có nhiều chuyển biến quan trọng. Chất lượng việc làm dần được cải thiện, lao động làm việc trong khu vực phi chính thức dần dịch chuyển sang khu vực chính thức.

- Thể chế phát triển thị trường KHCN được hoàn thiện theo hướng thúc đẩy tỷ trọng DN có đổi mới sáng tạo, tăng giá trị giao dịch của thị trường KHCN và số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ. Kết quả, đã có khoảng 30% DN có hoạt động đổi mới sáng tạo, đạt mục tiêu đề ra; số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ gia tăng. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đã được hình thành và đang phát triển nhanh.

MỘT SỐ HẠN CHẾ

Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, việc triển khai Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2016-2020 vẫn còn một số hạn chế như sau:

Một là, mô hình tăng trưởng có thay đổi nhưng chưa rõ nét. Tốc độ tăng NSLĐ còn thấp, nhất là NSLĐ nội ngành; tăng NSLĐ vẫn chủ yếu do tăng cường độ vốn, đóng góp của tiến bộ KHCN vào tăng trưởng NSLĐ còn thấp. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu chuyển biến chậm.

Hai là, khu vực tư nhân trong nước phát triển chưa tương xứng với quy mô và độ mở của nền kinh tế dẫn đến mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam có 1 triêu DN hoạt động hiệu quả và đóng góp của khu vực kinh tế ngoài nhà nước vào GDP đạt 45% không hoàn thành. Bên cạnh đó, mức độ phụ thuộc vào khu vực kinh tế nước ngoài chưa giảm.

Ba là, công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chủ yếu đang hoạt động ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị, nơi tạo ra giá trị gia tăng thấp. Điển hình là ngành dệt may hiện chủ yếu tham gia vào các khâu gia công (CMT) chiếm đến 60% và chỉ khoảng 5% xuất khẩu theo phương thức ODM (thiết kế trên ý tưởng có sẵn, sản xuất). Ngành điện tử hiện nay là ngành tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị toàn cầu, tuy nhiên, ngành điện tử Việt Nam (bao gồm cả các DN FDI) hiện đang đứng ở vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị là công đoạn lắp ráp và gia công sản phẩm.

Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp trong nước dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp đạt thấp, còn phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu, linh phụ kiện nhập khẩu[8]. Khu vực dịch vụ chưa phát triển tương xứng với tiềm năng.

Bốn là, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước chậm; hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực DNNN chậm được cải thiện. Hiệu quả đầu tư công chưa cao như kỳ vọng, giải ngân vốn đầu tư công còn chậm và nhiều vướng mắc. Tiến độ, chất lượng xử lý nợ xấu, các TCTD yếu kém chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế.

Những tồn tại, hạn chế kể trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, đặc biệt là các nguyên nhân về tổ chức thực hiện và thể chế:

(1) Định hướng ưu tiên về cơ cấu lại nền kinh tế chưa được quán triệt xuyên suốt và nhất quán trong chỉ đạo, điều hành ở các bộ, ngành và địa phương. Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan trong thực hiện một số nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, dẫn đến một số nhiệm vụ có tính chất liên ngành, đa lĩnh vực còn gặp nhiều khó khăn khi cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan.

(2) Những tồn tại, bất cập trong nhiều quy định hiện hành đang kìm hãm việc thực hiện có hiệu quả các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt thể chế thị trường các yếu tố sản xuất chậm phát triển, chưa là cơ chế chính trong phân bổ nguồn lực để đạt được hiệu quả cao nhất. Các cải cách thể chế và thực hiện các chương trình cơ cấu lại nền kinh tế chưa được tiến hành một cách nhất quán, toàn diện, đủ rộng và đủ mạnh để chuyển sang kinh tế thị trường đầy đủ và hiện đại, từng bước hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý và năng động hơn.

ĐỊNH HƯỚNG TIẾP TỤC CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GIAI ĐOẠN 2021-2025

Nhiều dự báo gần đây cho thấy, trong khoảng 5-10 năm tới, hòa bình và hợp tác phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới, tuy nhiên chủ nghĩa bảo hộ, dân tộc cực đoan, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố, tranh chấp biển đảo… sẽ tiếp tục gia tăng. Trật tự thế giới có thể có nhiều thay đổi nhanh chóng một mặt, cạnh tranh chiến lược, thương mại, công nghệ giữa các nước lớn gay gắt hơn và ngày càng phức tạp. Mặt khác, hội nhập quốc tế có xu hướng diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, an ninh - quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội… với tính chất, mức độ gắn kết ngày càng sâu rộng.

Bên cạnh đó, cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 tiếp tục diễn biến nhanh, sâu rộng và tác động mạnh mẽ đặt ra nhiều thách thức trên mọi mặt từ chính trị, xã hội, kinh tế. Ngoài ra, thế giới tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức về biến đổi khí hậu, về điều tiết lợi ích của các bên hữu quan trong hội nhập... Đặc biệt, thách thức từ tác động của đại dịch Covid-19 vẫn tiếp diễn để lại nhiều hậu quả nặng nề và tác động lớn đến tăng trưởng và phát triển kinh tế thế giới. Các biện pháp ngăn chặn dịch đã làm "đứt gãy" các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, đình trệ giao thương, đầu tư trên phạm vi toàn cầu; làm giảm cả "cung" và "cầu" trên thị trường.

Những diễn biến đó đặt ra nhiều thách thức không nhỏ cho Việt Nam, đòi hỏi phải tận dụng được các cơ hội ứng dụng công nghệ số và thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cơ hội tận dụng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu, cơ hội phát triển một số ngành hàng, dịch vụ tiềm năng như vật tư y tế (khẩu trang, thiết bị bảo hộ…), thương mại điện tử...

Nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng giai đoạn 2021-2025 cần được triển khai ngay, song song với các giải pháp hỗ trợ phục hồi kinh tế trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2021 - 2025 cần tập trung vào các định hướng sau:

Thứ nhất, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với quá trình đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện thể chế, đặc biệt là phát triển thị trường các yếu tố sản xuất, phát triển khu vực tư nhân và những thiết chế bảo vệ tài sản, sở hữu của DN, người dân… coi đây là điểm đột phá trong cải cách, cơ cấu lại nền kinh tế trong giai đoạn tới.

Đột phá thể chế tập trung vào việc hoàn thiện nội dung của các quy định, của hệ thống văn bản pháp luật, hoàn thiện vai trò và chức năng kiến tạo phát triển của Nhà nước, xóa bỏ các rào cản, chính sách, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp và thị trường và sản xuất kinh doanh, tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực xã hội, trọng tâm là vốn, đất đai, cơ hội kinh doanh… cho mọi thành phần kinh tế.

Thứ hai, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng tập trung khai thác triệt để cơ hội Cách mạng Công nghiệp 4.0, tạo dựng nền tảng vững chắc cho mô hình tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo. Thực hiện cơ cấu lại các ngành kinh tế theo hướng chuyển dịch và nâng cấp chuỗi giá trị các ngành, tăng cường khả năng chống chịu, liên kết ngành đảm bảo tăng trưởng xanh và bao trùm; Thúc đẩy phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh, thân thiện môi trường; Thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế thân thiện và khai thác mô hình tăng trưởng xanh như năng lượng tái tạo, nông nghiệp hữu cơ, du lịch sinh thái…

Thứ ba, xác định rõ ràng hơn các trọng tâm, trọng điểm cơ cấu lại nền kinh tế theo ngành, vùng, nhóm địa phương để tận dụng được lợi thế và tập trung nguồn lực, tạo ra những kết quả rõ nét hơn. Khắc phục cơ cấu nền kinh tế chia cắt, cát cứ, thiếu kết nối, thiếu bổ sung hợp lý giữa các thành phần, các địa bàn kinh tế; tạo điều kiện và khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và chủ động dần nâng cấp vị trí trong chuỗi giá trị.

Thứ tư, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng chú trọng tăng cường nội lực, phát triển lực lượng DN nội địa, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, tăng cường khả năng chống chịu với những cú sốc bên ngoài: Nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN; Thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, kết nối DN trong nước với chuỗi giá trị toàn cầu; Thay đổi chiến lược thu hút vốn FDI theo hướng kết nối và khuyến khích đổi mới sáng tạo; Thúc đẩy công nghiệp chế biến nông sản sâu, xây dựng thương hiệu, nâng cấp giá trị toàn cầu, dẫn dắt chuỗi giá trị nông nghiệp; Gia tăng tỷ lệ nội địa hóa trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, hỗ trợ các DN trong nước đáp ứng tốt hơn nhu cầu nguyên, phụ liệu, linh kiện của các DN chế tạo, nhất là DN FDI; Phát triển thương mại điện tử...

Thứ năm, cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng đảm bảo nhiều người dân được hưởng lợi từ quá trình tăng trưởng: Ưu tiên phát triển các ngành có khả năng tham gia hưởng lợi rộng rãi của người dân như nông nghiệp, chế biến thực phẩm, du lịch, ứng dụng công nghệ thông tin... Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường và sự chuyển đổi sang nền kinh tế dựa vào đổi mới sáng tạo và chuyển dần sang kinh tế thâm dụng vốn và tri thức; Phát triển thị trường lao động, trong đó tạo điều kiện thuận lợi cho dịch chuyển lao động; Tăng cường hạ tầng kết nối các cực tăng trưởng với các vùng miền có điều kiện kém thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội.

Thứ sáu, Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng giai đoạn 2021-2025 tập trung, quan tâm nhiều hơn đến tổ chức thực hiện với một số điểm đáng lưu ý sau đây: Yêu cầu các bộ ngành, các cấp chính quyền địa phương phải coi cơ cấu lại nền kinh tế trên phạm vi ngành, lĩnh vực và địa phương là một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025; Chính phủ cần có bộ phận chỉ đạo tập trung và liên tục đối với quá trình cơ cấu lại nền kinh tế; sẽ theo dõi, đánh giá tình hình và kết quả tái cơ cấu nền kinh tế nói chung và tái cơ cấu trên phạm vi ngành, lĩnh vực và địa phương nói riêng; Tăng cường giám sát của Quốc hội, các cơ quan của quốc hội, của Mặt trận tổ quốc và các tổ chức liên quan khác đối với tình hình và kết quả tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng./.

Tài liệu tham khảo

1. Chính phủ (2020). Báo cáo số 530/BC-CP ngày 16/10/2020 về tình hình Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021

2. Chính phủ (2020). Báo cáo số 531/BC-CP, ngày 16/10/2020 về Kết quả thực hiện Nghị quyết số 24/2016/QH14

3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Báo cáo số 8558/BC-BKHĐT, ngày 24/12/2020 về tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và năm 2020

4. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Báo cáo số 8462/BC-BKHĐ, ngày 21/12/2020 về Tình hình và kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng

5. Tổng cục Thống kê (2011-2020). Niên giám Thống kê các năm, từ 2010 đến 2019, Nxb Thống kê

TS. Đặng Thị Thu Hoài

Trưởng ban Nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực, CIEM

Ths. Nguyễn Văn Tùng

Ban Nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực, CIEM

(Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 04/2021)



[1] Năm 2018 là 3,54%, năm 2019 là 2,79%, năm 2020 là 3,23% (Đạt mục tiêu đề ra).

[2] Thu NSNN bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 24,5% GDP (giai đoạn 2011-2015 là 23,6%GDP)

[3] Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu NSNN bình quân giai đoạn 2016-2019 khoảng 81,6%, đến năm 2020 dự kiến đạt trên 84% (giai đoạn 2011-2015 là 68,7%).

[4] Tỷ trọng dự toán chi đầu tư phát triển tăng từ mức 20,02% năm 2016 lên 26,9% năm 2020, tỷ trọng chi ĐTPT thực hiện đạt 27%-28% tổng chi NSNN.

[5] Đến tháng 9/2020, 77 ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã áp dụng Thông tư số 41/2016/TT-NHNN, trong đó 18 TCTD đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận áp dụng trước thời hạn; chỉ còn một số TCTD đề nghị được áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Thông tư số 22/2019/TT-NHNN.

[6] Giai đoạn từ 2016 đến thời điểm 31/7/2020, toàn hệ thống các TCTD đã xử lý được 620,7 nghìn tỷ đồng.

[7] So sánh giai đoạn cơ cấu lại DNNN 2016-2019 với giai đoạn cơ cấu lại DNNN 2011-2015, tổng giá trị tài sản tăng 149%, trang bị tài sản cho người lao động tăng 189%, doanh thu thuần tăng 110%, lợi nhuận trước thuế tăng 114%. Số lượng DNNN có lãi tăng từ 80,2% lên 81,2%.

[8] Các ngành công nghiệp chủ đạo như dệt may, da giày, điện tử Việt Nam nhập khẩu hơn 90% nguyên liệu đồng thời phụ thuộc quá lớn vào một số thị trường như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan.

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư