Tìm giải pháp đổi mới thể chế thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân

16:15 | 12/03/2021 Print
- “Làm thế nào khơi thông, giải phóng điểm nghẽn, nguồn lực, làm thế nào để doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nhà đầu tư yên tâm đầu tư thay vì mua vàng, USD?”, ông đặt câu hỏi và nhấn mạnh, “Tôi rất sốt ruột”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói.

Chiều 12/3, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã chủ trì Hội thảo lấy ý kiến góp ý hoàn thiện Đề án “Đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam”. Bộ trưởng nhấn mạnh.“Đây là hội thảo hết sức quan trọng, mở đầu cho việc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, trong đó đề ra mục tiêu lớn cho giai đoạn 2025, 2030 và 2045”.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chủ trì Hội thảo

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, cùng với khu vực doanh nghiệp nhà nước, đây là 2 khu vực quan trọng của nền kinh tế, bên cạnh khu vực FDI, do đó cần phát huy tối đa khả năng phát triển của hai khu vực này.

Khu vực tư nhân chưa thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế

Đi sâu vào nội dung Đề án, ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết, qua gần 35 năm đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều Nghị quyết thừa nhận và khẳng định vai trò và vị thế của kinh tế tư nhân, từ "có vị trí quan trọng lâu dài" (Đại hội IX) đến “có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” (Đại hội X và XI) và “là một động lực quan trọng của nền kinh tế” (Đại hội XII và Nghị quyết 10-NQ/TW của Hội nghị Trung ương năm khóa XII). Theo đó, hàng loạt những quyết sách lớn của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân đã được ban hành và triển khai thực hiện.

Dẫn số liệu kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng 42-43% GDP, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội..., ông Hiếu khẳng định, vai trò, vị thế của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định và thể hiện rõ nét thông qua những đóng góp vào phát triển kinh tế xã hội.

Đặc biệt lực lượng doanh nghiệp tư nhân đã góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm thay đổi “diện mạo” đất nước, tạo dấu ấn, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; hình thành nhiều thương hiệu có tính cạnh tranh khu vực và quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, ông Hiếu cũng thẳng thắn chỉ ra chất lượng phát triển của khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn hạn chế ở nhiều mặt; chưa thực sự là một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Thứ nhất, theo ông Hiếu và nhóm nghiên cứu, thì năng suất và tốc độ tăng năng suất của khu vực kinh tế tư nhân còn thấp và có nhiều hạn chế.

Cụ thể, theo số liệu thống kê, năng suất lao động bình quân của khu vực doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng khoảng 34% năng suất lao động của khu vực DNNN và khoảng 69% năng suất lao động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

“Phần lớn doanh nghiệp có năng suất thấp thường có quy mô siêu nhỏ và nhỏ (chiếm trên 97% tổng số doanh nghiệp) và có xu hướng “li ti hóa”. So với các nước trong khu vực và thế giới, quy mô doanh nghiệp tư nhân Việt Nam quá nhỏ bé”, ông Hiếu chia sẻ.

Bên cạnh đó, năng lực khoa học công nghệ của các doanh nghiệp còn hạn chế, có nơi còn lạc hậu; doanh nghiệp chưa mạnh dạn đầu tư cho ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ tiên phong.

“Hiện tại, chỉ có 10% số doanh nghiệp đã từng đăng ký, hoặc đăng ký thành công 01 bằng sáng chế trong vòng 3 năm liên tiếp; đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ chỉ chiếm khoảng 0,3% doanh thu, thấp hơn nhiều so với các nước như Ấn Độ (5%), Hàn Quốc (10%); chỉ có khoảng 10,2% doanh nghiệp có đầu tư vào một số hoạt động nghiên cứu triển khai (R&D)”, ông Hiếu dẫn chứng.

Về trình độ quản trị doanh nghiệp, ông Hiếu cho biết, theo báo cáo thẻ điểm quản trị công ty ASEAN, các doanh nghiệp nước ta có điểm về quản trị ở mức thấp nhất trong 6 quốc gia.

Đặc biệt, tính liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú trọng cải thiện khả năng liên kết, nâng cao năng lực cạnh tranh để tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Hiện chỉ có khoảng 21% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia được một phần chuỗi giá trị toàn cầu, 14% thành công trong việc liên kết với đối tác nước ngoài, trong khi số doanh nghiệp FDI đầu tư tại Việt Nam là rất nhiều.

Làm thế nào nhà đầu tư yên tâm đầu tư thay vì mua vàng, USD?

Theo Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng, về mặt khách quan, khu vực kinh tế tư nhân đang phát triển còn nhiều vướng mắc, “tạm gọi là rào cản, nút thắt, điểm nghẽn mà chúng ta chưa tháo gỡ, khơi thông được, chưa giải phóng được nguồn lực từ tư nhân mặc dù nguồn lực này rất lớn”.

Làm rõ hơn, Bộ trưởng cho biết, khả năng tiếp cận vốn, đất đai, mặt bằng của các doanh nghiệp nhỏ rất hạn chế, hơn nữa là bản thân họ chưa sẵn sàng.

Bộ trưởng cho rằng, “phải thay đổi từ tư duy”, tạo sự thân thiện, đảm bảo an toàn cho nhà đầu tư. Từ công tác xây dựng thể chế, chúng ta thay đổi theo hướng kiến tạo để họ phát triển. Đây là đề án lớn, Bộ đã xây dựng và báo cáo, được Chính phủ đánh giá cao.

“Làm thế nào khơi thông, giải phóng điểm nghẽn, nguồn lực, làm thế nào để doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, nhà đầu tư yên tâm đầu tư thay vì mua vàng, USD?”, ông đặt câu hỏi và chia sẻ rằng: “Tôi rất sốt ruột!”.

“Chúng ta có thể không vượt qua bẫy trung bình nếu không thay đổi nhanh. Theo đánh giá của World Bank, cơ hội chỉ còn 10 năm nữa thôi vì đây là giai đoạn dân số vàng, đến năm 2030 bắt đầu chuyển sang già hóa dân số”, Bộ trưởng nói.

Tuy nhiên, ông cũng cho rằng, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chiến tranh thương mại tạo ra làn sóng chuyển dịch mạnh mẽ, đồng thời thể chế, môi trường kinh doanh của Việt Nam đang ngày càng cải thiện tốt hơn. Cùng với đó, Việt Nam đã ký nhiều FTA tạo ra thị trường rộng lớn, mở ra cho chúng ta nhiều cơ hội. “Đây là cơ hội vàng phải nắm lấy, tận dụng mọi thời cơ, cơ hội”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Bộ trưởng cũng lưu ý rằng, chúng ta đang hướng tới hội nhập, hướng tới các thông lệ tốt của quốc tế. Trong thời gian tới, theo Bộ trưởng, 5 nhóm giải pháp trọng tâm để đổi mới toàn diện quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế tư nhân, gồm:

(1) Định hướng, quy hoạch: Thực hiện đúng, đầy đủ, chất lượng, hiệu quả vai trò của Nhà nước trong định hướng, quy hoạch và điều tiết kinh tế; nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, quản lý và điều tiết vĩ mô.

“Quy hoạch làm tốt, chúng ta sẽ giảm xin cho”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

(2) Tạo lập khung khổ thể chế. Theo Bộ trưởng, chúng ta phải đổi mới chính sách, pháp luật nhằm tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh; phát triển mạnh các doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn; khuyến khích các doanh nghiệp quy mô lớn và vừa tiếp tục đầu tư vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp lớn và vừa với doanh nghiệp nhỏ, thúc đẩy liên kết kinh doanh, liên kết chuỗi…

“Phải xây dựng văn hóa liên kết, văn hóa cộng đồng trong doanh nghiệp. Đây là vấn đề chúng tôi rất quan tâm”, Bộ trưởng nhấn mạnh.

Bộ trưởng cũng cho rằng, nhiều người không có ý thức chấp hành pháp luật, tính kỷ cương, kỷ luật, chấp hành pháp luật đang yếu chung, nên cần phải cải thiện trong tất cả các khối.

(3) Thực hiện phân bổ nguồn lực phát triển hiệu quả, đảm bảo cho kinh tế tư nhân được tiếp cận bình đẳng đến các nguồn lực phát triển; phát triển các thị trường nhân tố sản xuất; thúc đẩy mạnh mẽ cổ phần hóa DNNN, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp không cần duy trì vốn nhà nước nhằm tạo nhiều hơn nữa cơ hội kinh doanh cho khu vực kinh tế tư nhân.

“Về vốn, tôi vẫn băn khoăn là giá vốn của chúng ta vẫn còn cao quá. Lãi suất dù đã được giảm, nhưng vẫn cao quá, gây khó khăn cho doanh nghiệp. Cần có giải pháp làm giảm lãi suất cho vay”, Bộ trưởng chia sẻ suy nghĩ.

(4) Nâng cao chất lượng quản lý thị trường, hiệu quả hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát, chuyển từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”; áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra; ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa, điện tử hóa để giảm chi phí phát sinh cho doanh nghiệp.

(5) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi chính sách, pháp luật; nâng cao chất lượng phân công, phối hợp trong quản lý nhà nước và chia sẻ thông tin giữa các cơ quan quản lý nhà nước…/.

Phương Anh

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư