Gần 90% doanh nghiệp Việt chịu tác động nặng từ đại dịch Covid -19

11:12 | 15/03/2021 Print
- VCCI khảo sát 10.197 doanh nghiệp và đưa ra kết quả trên. Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc đánh giá cao sự kiên cường của các doanh nghiệp và chia sẻ một phát hiện rất thú vị rằng, khả năng chống chịu kiên cường đang trở thành năng lực cạnh tranh cốt lõi của nền kinh tế và doanh nghiệp Việt.

Báo cáo do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cùng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam (WB) hợp tác thực hiện trong năm 2020 với sự hỗ trợ từ Chính phủ Úc nhằm nhận diện tác động của đại dịch COVID-19 lên hoạt động sản xuất kinh doanh, tìm hiểu khả năng ứng phó của doanh nghiệp với đại dịch cũng như đánh giá của các doanh nghiệp đối với một số chính sách hỗ trợ của Nhà nước.

Gần 90% doanh nghiệp Việt Nam bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid -19 ở các mức độ khác nhau

Đại dịch COVID-19 tác động nghiêm trọng đến doanh nghiệp nhiều lĩnh vực

Tổng số 10.197 doanh nghiệp trên toàn quốc tham gia vào khảo sát đã cung cấp những góc nhìn cụ thể về ảnh hưởng của COVID-19 và cách thức ứng phó của doanh nghiệp. Chia sẻ kết quả nghiên cứu, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế VCCI cho biết kết quả khảo sát cho thấy năm 2020 là một năm đầy khó khăn khi mà gần 90% doanh nghiệp bị tác động nặng nề bởi dịch bệnh với nhiều hệ lụy như giảm sút khả năng tiếp cận khách hàng, mất cân bằng về dòng tiền, chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Nhiều doanh nghiệp đã phải cho lao động nghỉ việc, ngừng hoạt động, thậm chí phá sản và đối tượng doanh nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, các doanh nghiệp trẻ chưa đầy 3 năm tuổi.

Do tác động của dịch Covid-19, 2020 cũng là năm mà mức tăng trưởng GDP của Việt Nam ở mức thấp nhất, chưa bằng một nửa so với những năm trước đây, và cũng là năm mà số lượng doanh nghiệp rút khỏi thị trường đạt mức kỷ lục vượt ngưỡng 100 ngàn doanh nghiệp

Cụ thể, theo số liệu khảo sát từ báo cáo nghiên cứu được công bố, Đại dịch COVID-19 nhìn chung có tác động nghiêm trọng đến doanh nghiệp tại Việt Nam, với 87,2% doanh nghiệp cho biết chịu ảnh hưởng ở mức “phần lớn” hoặc “hoàn toàn tiêu cực”.

Chịu ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn cả là các doanh nghiệp mới hoạt động dưới 3 năm, nhóm có quy mô siêu nhỏ, nhỏ hoặc các doanh nghiệp tại vùng Duyên hải miền Trung. Cả khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (doanh nghiệp FDI) đều bị ảnh hưởng nặng nề.

Đặc biệt, doanh nghiệp tư nhân trong một số ngành có tỷ lệ chịu tác động tiêu cực cao bởi dịch là May mặc (97%), Thông tin truyền thông (96%) và Sản xuất thiết bị điện (94%). Doanh nghiệp FDI trong một số ngành có tỷ lệ chịu ảnh hưởng tiêu cực cao bao gồm Bất động sản (100%), Thông tin truyền thông (97%), Nông nghiệp/thuỷ sản (95%).

Đại dịch COVID-19 đã khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiếp cận khách hàng, làm gián đoạn chuỗi cung ứng, sử dụng nhân công, người lao động, bị phát sinh thêm chi phí phòng ngừa dịch Covid-19... Nhiều trường hợp cho biết bị gián đoạn, dừng hoạt động do tình hình dịch, thậm chí đứng trước bờ vực phá sản bởi thị trường giảm cầu đột ngột. Một số doanh nghiệp cho biết đã phải trì hoãn, giãn tiến độ đầu tư thậm chí huỷ dự án đang hoặc sẽ thực hiện.

Do những tác động của dịch COVID-19, có tới 65 % doanh nghiệp tư nhân và 62% doanh nghiệp FDI bị giảm doanh thu năm 2020 so với năm 2019. Mức giảm doanh thu trung bình với doanh nghiệp tư nhân là 36% và doanh nghiệp FDI là 34%. Doanh nghiệp quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa có mức giảm doanh thu trung bình cao hơn so với những doanh nghiệp quy mô lớn.

Nhiều doanh nghiệp chủ động ứng phó đối với đại dịch

Chịu tác động hết sức nặng nề, song điều đáng chú ý mà báo cáo nghiên cứu cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đã chủ đông thực hiện một hoặc nhiều biện pháp ứng phó đối với dịch COVID-19.

Biện pháp mà nhiều doanh nghiệp thực hiện hơn cả là cấp đồ bảo hộ phòng dịch cho người lao động, với 57% doanh nghiệp tư nhân và 71% doanh nghiệp FDI. Kế đến là việc doanh nghiệp chủ động triển khai phương thức, mô hình làm việc mới, linh hoạt hơn với 37% doanh nghiệp tư nhân và 40% doanh nghiệp FDI ứng dụng.

Bên cạnh đó, dự trữ hàng hoá và nguyên vật liệu là giải pháp được 20% doanh nghiệp tư nhân và 24% doanh nghiệp FDI lựa chọn tiếp theo. 16% doanh nghiệp tư nhân và 24% doanh nghiệp FDI đã tìm kiếm các giải pháp mới/thay thế chuỗi cung ứng. Khoảng 13% doanh nghiệp tư nhân và 15% doanh nghiệp FDI đã tiến hành hoạt động đào tạo kỹ năng số cho người lao động để triển khai phương pháp làm việc trực tuyến.

Đánh giá về hiệu quả và sự chủ động của các nỗ lực ứng phó từ phía doanh nghiệp, ông Jacques Morisset, Chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cho rằng mặc dù đại dịch đã ảnh hưởng tiêu cực đến hầu hết các doanh nghiệp tại Việt Nam, nhưng nhiều doanh nghiệp đã chứng tỏ khả năng phục hồi cao sau khi dỡ bỏ giãn cách xã hội toàn quốc vào cuối tháng 4 năm 2020.

“Họ đã điều chỉnh mô hình kinh doanh của mình, đặc biệt là bằng cách đẩy nhanh việc áp dụng công nghệ kỹ thuật số, đáp ứng nhu cầu của khách hàng địa phương và củng cố vị thế của họ trong chuỗi giá trị toàn cầu. Để duy trì sự chuyển đổi này, sẽ cần sự hỗ trợ thông minh và hiệu quả từ Chính phủ trong cả ngắn hạn và dài hạn”, ông Jacques Morisset nhấn mạnh khuyến nghị đưa ra tại Báo cáo.

Trong khi đó, Chủ tịch VCCI Vũ Tiến Lộc cũng đánh giá rất cao sự kiên cường của cộng đồng doanh nghiệp để vượt lên hoàn cảnh khó khăn khi chia sẻ về phát hiện rất thú vị rằng khả năng chống chịu kiên cường đang trở thành một năng lực cạnh tranh cốt lõi của nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

“Doanh nghiệp cũng đã thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều qua đại dịch. Doanh nghiệp phải suy ngẫm lại chiến lược, phải tái cấu trúc, đào tạo lại nguồn lao động, chú trọng nhiều hơn đến thị trường nội địa, xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ và chuỗi cũng ứng Việt, đồng thời với việc đa dạng hoá thị trường tiêu thụ và nguồn cung ứng … Các sáng kiến trong ứng phó với COVID-19 đã được các doanh nghiệp thực hiện. Quá trình chuyển đổi số cũng từng bước được triển khai. Đó là những bài học và trải nghiệm vô giá từ Covid”, ông Lộc nhận xét.

Hiệu quả từ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua COVID-19

Đánh giá về hiệu quả các chính sách hỗ trợ từ các gói hỗ trợ của Chính phủ trong năm 2020, kết quả khảo sát cho thấy 75% doanh nghiệp cho rằng các chính sách hỗ trợ của Chính phủ là hữu ích. Các chính sách hỗ trợ và sự đồng hành của Chính phủ trong bối cảnh dịch Covid được các doanh nghiệp đánh giá cao nhất là các chính sách tài khoá như việc giãn, hoãn thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập, tiền thuê đất, các chính sách nới lỏng về tín dụng của các ngân hàng.

Một số chính sách như gia hạn đóng thuế thu nhập doanh nghiệp, gia hạn đóng thuế giá trị gia tăng được các doanh nghiệp cho là dễ tiếp cận hơn cả. Trong khi đó, việc vay lãi suất 0% trả lương cho người lao động được đánh giá là chính sách khó tiếp cận nhất. Mặc dù vậy các doanh nghiệp vẫn đánh giá cao sự cần thiết của chính sách này.

Phân theo khu vực kinh tế, doanh nghiệp tư nhân quy mô vừa hoặc lớn có xu hướng đánh giá việc tiếp cận các chính sách thuận lợi hơn. Ba chính sách được các doanh nghiệp đánh giá cao nhất về mức độ hữu ích bao gồm gia hạn đóng thuế giá trị gia tăng, gia hạn đóng thuế thu nhập doanh nghiệp và gia hạn nộp tiền thuê đất.

Kết quả khảo sát cũng cho thấy những doanh nghiệp nào dễ tiếp cận thông tin về chính sách hỗ trợ hơn, thì có xu hướng đánh giá mức độ hữu ích của chính sách cao hơn.

TS. Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhận định năm 2021 sẽ vẫn còn không ít khó khăn đối với các doanh nghiệp. Do đó, chính quyền các cấp bên cạnh việc hỗ trợ doanh nghiệp gặp khó khăn, cần xây dựng và triển khai chính sách hỗ trợ theo hướng tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trụ lại được và có khả năng vượt lên sau dịch Covid-19, đặc biệt về đổi mới sáng tạo, đào tạo nhân lực chất lượng cao, sẵn sàng cho cuộc cạnh tranh mới.

“Việc này sẽ rất quan trọng bởi sẽ giúp doanh nghiệp tìm cơ hội trong bối cảnh mới và nền kinh tế sớm vươn lên phục hồi tăng trưởng và đi vào giai đoạn phát triển mới cao hơn”, ông Lộc nhấn mạnh.

Kiến nghị chính sách hỗ trợ đảm bảo công bằng

Từ thực tiễn thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước trong thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp cũng kiến nghị bên cạnh các giải trước mắt đã được Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền địa phương ban hành như miễn giảm thuế, giãn thuế, gia hạn nộp thuế, giảm lãi suất, giảm các chi phí của hoạt động kinh doanh, cần phải chú ý đến những giải pháp có tính chất hạn dài hơn.

Cùng với việc tiếp tục triển khai các chính sách hỗ trợ đã được ban hành, nhiều doanh nghiệp cũng đề xuất Chính phủ, các bộ ngành và chính quyền các địa phương cần phổ biến rộng rãi hơn thông tin về các chính sách hỗ trợ, cắt giảm mạnh mẽ các thủ tục hành chính, đơn giản hoá các tiêu chí, điều kiện tiếp cận cũng như đảm bảo công bằng giữa các đối tượng trong diện được hỗ trợ.

Nhiều doanh nghiệp mong muốn chính quyền các cấp đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật nhằm tạo một môi trường kinh doanh thuận lợi – đây sẽ là hỗ trợ quan trọng cho sự phục hồi bền vững của các doanh nghiệp trong quá trình ứng phó với tác động của đại dịch toàn cầu COVID-19./.

Hiếu Phương

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư