Tổ chức chính quyền đô thị tại TP. Hồ Chí Minh được thực hiện thế nào?

22:49 | 29/03/2021 Print
- Mỗi Ban thuộc Hội đồng nhân dân (HĐND) TP. Hồ Chí Minh có 1 Ủy viên hoạt động chuyên trách do Thường trực HĐND Thành phố Hồ Chí Minh xem xét, phê chuẩn.

Ngày 29/3/2021, Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 33/2021/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại TP. Hồ Chí Minh.

Người dân làm thủ tục đăng ký bất động sản tại Văn phòng đăng ký đất đai TP. Hồ Chí Minh theo mô hình "một dấu một cửa" - Ảnh: TỰ TRUNG

Theo đó, mỗi Ban thuộc Hội đồng nhân dân (HĐND) TP. Hồ Chí Minh có 1 Ủy viên hoạt động chuyên trách. Ủy viên hoạt động chuyên trách do Thường trực HĐND Thành phố Hồ Chí Minh xem xét, phê chuẩn theo đề nghị của Trưởng ban của HĐND.

Chức danh Ủy viên hoạt động chuyên trách (Ủy viên chuyên trách) tại các Ban thuộc HĐND thành phố Hồ Chí Minh gồm: Ủy viên chuyên trách Ban Pháp chế; Ủy viên chuyên trách Ban Kinh tế - ngân sách; Ủy viên chuyên trách Ban Văn hóa - xã hội; Ủy viên chuyên trách Ban đô thị.

Cơ cấu tổ chức của UBND quận gồm: Chủ tịch quận; Phó Chủ tịch quận; Trưởng Công an quận; Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự quận; các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận; các cơ quan hành chính khác và các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND quận.

UBND thành phố Thành phố Hồ Chí Minh quy định cụ thể tên gọi và số lượng cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận cho phù hợp. Riêng Văn phòng Hội đồng nhân dân, UBND quận gọi là Văn phòng UBND quận.

Việc thành lập các cơ quan hành chính khác thuộc UBND quận được thực hiện theo quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức lại, giải thể tổ chức hành chính và theo quy định pháp luật chuyên ngành. Việc thành lập các đơn vị sự nghiệp thuộc UBND quận thực hiện theo quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập và theo quy định tại văn bản pháp luật chuyên ngành.

Ủy ban nhân dân quận làm việc theo chế độ thủ trưởng; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ; đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng dịch vụ công trực tuyến vào giải quyết thủ tục hành chính cho cá nhân, tổ chức tại quận và theo quy định của pháp luật, bảo đảm các hoạt động của Ủy ban nhân dân quận phải dân chủ, công khai, minh bạch, thống nhất, thông suốt.

Nghị định 33 cũng nêu rõ, cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thuộc TP. Hồ Chí Minh bao gồm: Văn phòng HĐND và UBND; Phòng Nội vụ; Phòng Tư pháp; Phòng Tài chính - Kế hoạch; Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội; Phòng Văn hóa và Thông tin; Phòng Quản lý đô thị; Phòng Tài nguyên và Môi trường; Phòng Giáo dục và Đào tạo; Thanh tra quận; Phòng Kinh tế; Phòng Y tế; Phòng Khoa học và Công nghệ.

Căn cứ quy định, HĐND cùng cấp xem xét, quyết định việc thành lập, tổ chức lại, giải thể các phòng cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước ở thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh; quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của phòng thuộc UBND thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Số lượng cấp phó của người đứng đầu các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh do UBND thành phố thuộc thành phố Hồ Chí Minh xem xét, quyết định nhưng số lượng không quá 3 người.

Nghị định cũng quy định cơ cấu tổ chức của UBND phường gồm: Chủ tịch phường; Phó Chủ tịch phường; Trưởng Công an phường; Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy quân sự phường; các công chức: Văn phòng - Thống kê; Địa chính - Xây dựng - Đô thị và Môi trường; Tài chính - Kế toán; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hóa - Xã hội.

Công chức làm việc tại UBND phường là người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ chức danh thuộc cơ cấu tổ chức của UBND phường (trừ Trưởng Công an phường).

Ủy ban nhân dân phường làm việc theo chế độ thủ trưởng.

Biên chế công chức bình quân làm việc tại Ủy ban nhân dân phường là 15 người. Số bình quân này được tính trên tổng số phường của một quận, thành phố thuộc TP. Hồ Chí Minh.

------

TP. Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, là đầu tàu kinh tế, có sức thu hút, lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Quy mô và mật độ dân số cao nhất cả nước (thống kê năm 2020, Thành phố có 9 triệu dân, thực tế có trên 10 triệu người đang sinh sống, học tập và làm việc), đóng góp gần 1/4 GDP cả nước.

Với quy mô kinh tế và cường độ hoạt động kinh tế và nhiều mặt lớn nhất cả nước, yêu cầu đặt ra là các quyết định quản lý hành chính của chính quyền Thành phố phải được triển khai đến chính quyền cơ sở, người dân và doanh nghiệp nhanh và chính xác; được thi hành kịp thời, đồng bộ, hạn chế việc các cấp trung gian diễn đạt và hướng dẫn lại. Đồng thời, do hoạt động kinh tế của Thành phố có tính chất liên thông, liên kết; việc cung cấp các dịch vụ hạ tầng như điện, nước, thoát nước, xử lý rác, giao thông công cộng, y tế, giáo dục đòi hỏi phải được quy hoạch và thực hiện thống nhất, đồng bộ toàn Thành phố, không phụ thuộc vào địa giới hành chính quận, huyện, phường, xã, thị trấn…

Hơn nữa, với biến động kinh tế, xã hội, môi trường, an ninh, dân cư tăng nhanh sẽ cần bộ máy chính quyền đô thị hiện đại. Thực tế ở các nước phát triển, bộ máy chính quyền đô thị cũng khác vùng nông thôn.

Mặt khác, TP. Hồ Chí Minh đã có kinh nghiệm thí điểm thành công việc không tổ chức HĐND ở tất cà các quận, huyện, phường trên địa bàn Thành phố (từ năm 2009-2016). Đánh giá gần 7 năm thực hiện thí điểm đã cho thấy nhiều kết quả tích cực như: tinh gọn bộ máy, khắc phục sự trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ của các ngành, các cấp, tiết kiệm ngân sách, đảm bảo tính thống nhất, thông suốt, nâng cao năng lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền nhà nước, phát huy được quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở.

Do giảm tầng nấc, không phải thông qua nhiều cấp chính quyền nên thời gian triển khai các kế hoạch được nhanh hơn, chính xác hơn, phù hợp với tính chất, yêu cầu quản lý của một đô thị đông dân. Hoạt động giám sát tiếp tục được phát huy thông qua đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND Thành phố, Ủy ban MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội…

Việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân trên địa bàn vẫn được bảo đảm, một số mặt thực hiện dân chủ cơ sở được tăng cường, kinh tế - xã hội phát triển, an ninh quốc phòng giữ vững, đời sống các mặt của người dân không ngừng tăng lên. Đây là một trong những cơ sở thực tiễn cho thấy hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền không phụ thuộc vào việc tổ chức HĐND trải đều trên tất cả các cấp hành chính. Trong khi đó, khi tổ chức lại HĐND huyện, quận, phường nhiệm kỳ 2016-2021, nhân sự HĐND tăng lên trên 8.300 người, ngân sách chi khoảng 47 tỷ/năm 2016.

Về cơ sở chính trị, pháp lý, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và sau đó là NQ18-NQ/TW, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa XII) đã xác định “Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế xây dựng chính quyền địa phương theo hướng phân định rõ hơn tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt”. Theo Hiến pháp năm 2013: “Cấp chính quyền địa phương gồm có HĐND và UBND được tổ chức phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do luật định”. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 đã có quy định cụ thể hơn về cấp chính quyền địa phương.

Xuất phát từ cơ sở thực tiễn, cơ sở chính trị và căn cứ pháp lý hiện hành, việc trình, ban hành Nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM là cần thiết và phù hợp quy định. Đây được xem là thời điểm chín muồi.

Tổ chức chính quyền đô thị tại TP. Hồ Chí Minh nhằm tinh gọn, hợp lý, hoạt động hiệu lực, hiệu quả dưới sự lãnh đạo của Đảng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và tính minh mạch trong quản lý của chính quyền thành phố; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân; góp phần xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh./.

An Nhi

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư