Cải thiện chất lượng nguồn lao động Việt Nam, cách nào?

20:13 | 26/04/2021 Print
- Những năm qua, thị trường lao động Việt Nam đã có những cải thiện nhất định, song, trên thực tế, thị trường lao động của Việt Nam vẫn còn bộc lộ không ít bất cập, chất lượng nguồn lao động của Việt Nam còn thấp. Do đó, cần có những giải pháp để phát triển thị trường lao động Việt Nam trong giai đoạn tới.

Được sự hỗ trợ của Chương trình Australia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), ngày 26/4, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức Hội thảo “Phát triển thị trường lao động nhằm thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế ở Việt Nam”.

Thị trường lao động còn nhiều bất cập

Phát biểu tại hội thảo, PGS, TS. Trần Kim Chung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chia sẻ, nghiên cứu về phân bổ nguồn lực trong thị trường lao động hướng đến tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam nhằm rà soát lại chính sách và diễn biến thực tiễn thị trường lao động cũng như xem xét tình hình kinh tế, xã hội trong và ngoài nước tác động đến phát triển thị trường lao động của Việt Nam. Đây cũng là dịp để các chuyên gia đưa ra ý kiến về định hướng và một số giải pháp chính sách phát triển thị trường lao động giai đoạn 2021-2025 và các năm tiếp theo.

PGS, TS. Trần Kim Chung nhấn mạnh, hội thảo là dịp để các chuyên gia đưa ra ý kiến về định hướng và một số giải pháp chính sách phát triển thị trường lao động giai đoạn tiếp theo.

Thực tiễn những năm qua cho thấy, thị trường lao động Việt Nam đã có những cải thiện nhất định về hệ thống chính sách lao động, việc làm và khung pháp lý để phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của nguồn nhân lực và giải quyết việc làm cho người lao động, như: hệ thống chính sách về đào tạo đại học, giáo dục nghề nghiệp; chính sách tạo việc làm; chính sách tiền lương; chính sách về bảo hiểm xã hội cho người lao động; chính sách kết nối cung – cầu lao động…

Nhờ đó, thị trường lao động thời gian qua đã có những cải thiện nhất định. Lao động đã dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ; từ khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức, từ những công việc không ổn định, bấp sang những công việc mang tính ổn định, bền vững và đảm bảo hơn; từ những ngành nghề đơn giản sang những ngành nghề đòi hỏi chuyên môn, kỹ thuật cao; từ khu vực có năng suất lao động thấp sang khu vực có năng suất lao động cao hơn.

Mặc dù vậy, theo bà Lê Thị Xuân Quỳnh, Phó Trưởng ban Ban nghiên cứu kinh tế ngành và lĩnh vực (CIEM), thị trường lao động của Việt Nam vẫn còn bộc lộ không ít bất cập. Theo đó, chất lượng nguồn lao động của Việt Nam còn thấp. Việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp chủ yếu vẫn là sơ cấp và các hình thức đào tạo dưới 3 tháng, chiếm 75,3% năm 2019, cao đẳng và trung cấp chỉ chiếm 24,7%.

Toàn cảnh hội thảo.

Việt Nam chưa đạt chỉ tiêu tỷ lệ lao động đào tạo có bằng cấp chứng chỉ là 25% vào năm 2020. Trong đào tạo còn thiếu gắn kết giữa đào tạo và thực hành. Chính vì vậy, kỹ năng lao động của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chỉ đạt 46/100 điểm (xếp thứ 103), kém rất xa so với nhóm ASEAN-4, chỉ cao hơn Indonesia và Lào.

Bà Lê Thị Xuân Quỳnh dẫn chứng, tại Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, một trong những trường đại học hàng đầu của Việt Nam, nhưng sự gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp còn rất hạn chế. Mặc dù thời gian qua đã có sự cải thiện, nhưng mới nhà trường chỉ dừng lại ở giới thiệu việc làm cho sinh viên, còn doanh nghiệp tham gia vào công tác giảng dạy hay nghiên cứu phát triển của nhà trường rất ít.

Bên cạnh đó, thị trường lao động của Việt Nam đang có dấu hiệu già hóa lao động. Lực lượng lao động tại Việt Nam ngày một già hóa với lao động cao tuổi tăng mạnh, lao động trẻ giảm và không đủ thay thế lực lượng lao động đang già hóa. Năm 2019, tuổi bình quân là 41 tuổi, tuổi trung vị là 40 tuổi.

Trong khi đó, tình trạng thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 15-45 thường xuyên ở mức cao, năm 2019 chiếm 6,51% và chiếm 38,7% tổng số người thất nghiệp.

Ngoài ra, chức năng dịch chuyển lao động theo tín hiệu thị trường chưa rõ ràng. Lao động phân bổ không đều, còn bất hợp lý giữa các vùng, các vùng đất rộng có tỷ trọng lao động thấp (vùng Trung du miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,87%, Tây Nguyên chiếm 6,25% lực lượng lao động).

Hơn một nửa hoạt động tìm kiếm việc làm thực hiện qua những con đường phi chính thức

Bà Lê Thị Xuân Quỳnh cho rằng, một số nguyên nhân dẫn tới hạn chế thị trường lao động Việt Nam thời gian qua là do, sắp xếp mạng lưới trường lớp chưa đi cùng với hoàn thiện quy hoạch tổng thể về phát triển trường lớp; xác định các ngành nghề trọng điểm, nhưng chưa có chính sách gắn kết giữa cơ sở giáo dục với doanh nghiệp; cơ chế tự chủ tài chính của các cơ sở giáo dục chưa đi cùng với tự chủ về con người, về chương trình đào tạo; thiếu nguồn lực để thực hiện.

Theo bà Lê Thị Xuân Quỳnh, các trung tâm dịch vụ việc làm công lập thiếu năng động, vẫn mang tính hành chính.

Cơ chế giám sát thực hiện các chương trình, chính sách kém hiệu lực, hiệu quả thấp. Thiếu khung pháp lý, chế tài xử lý về trách nhiệm và quyền lợi của doanh nghiệp trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp…

Bên cạnh đó, bảo hiểm xã hội vẫn chưa thật sự gắn kết chặt chẽ hữu cơ với hệ thống các tầng an sinh xã hội (như: việc làm, thu nhập, trợ giúp xã hội và các dịch vụ xã hội tối thiểu).

Cùng với đó, trung tâm dịch vụ việc làm công lập thiếu năng động, vẫn mang tính hành chính, phục vụ chủ yếu đối tượng bảo hiểm thất nghiệp trong khu vực chính thức, chưa có sự kết nối giữa các trung tâm dịch vụ việc làm với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ việc làm tư nhân. Theo báo cáo, hơn một nửa hoạt động tìm kiếm việc làm thực hiện qua những con đường phi chính thức, như: bạn bè, người thân; 2%-3% tìm qua trang web.

Cần chú trọng hoàn thiện thể chế, chính sách tiền lương cho người lao động

Đề xuất khuyến nghị phát triển thị trường lao động Việt Nam trong giai đoạn tới, bà Lê Thị Xuân Quỳnh cho rằng, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo lập các điều kiện cơ bản để thúc đẩy sự phát triển và hoạt động của thị trường lao động theo hướng hiện đại, đảm bảo đồng bộ, linh hoạt, minh bạch, cạnh tranh và hội nhập.

Hoàn thiện cơ chế chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động về quy mô, chất lượng lao động, cơ cấu ngành, nghề. Tăng cường vai trò của nhà nước trong việc giám sát, điều tiết cung - cầu lao động; kết nối cung - cầu nhân lực trong cả nước, khu vực và gắn với thị trường lao động quốc tế, khu vực ASEAN.

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với thị trường lao động, tăng cường gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

TS. Nguyễn Tú Anh, Viện trưởng Viện Kinh tế Tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương cho rằng, cần ưu tiên chính sách và nguồn lực cần thiết để tập trung cải thiện và phát triển thị trường lao động, qua đó, thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế. Trong giai đoạn tới, phát triển thị trường lao động cần chú trọng hoàn thiện thể chế, chính sách về đào tạo nguồn nhân lực, về tạo dựng và giải quyết việc làm cho người lao động, chính sách tiền lương cho người lao động và phát triển các định chế trung gian, các cơ chế an sinh, bảo hiểm xã hội cho người lao động để thúc đẩy thị trường lao động phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả và hội nhập với thị trường lao động khu vực và thế giới, đáp ứng quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao…

TS. Bùi Sỹ Tuấn cho rằng, về cải cách chính sách tiền lương cần thiết phải có sự đồng bộ dưới sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động.

Đồng quan điểm, TS. Bùi Sỹ Tuấn, Phó Chánh Văn phòng, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết, chính sách tiền lương đã được thực hiện theo Nghị quyết 27 và Nghị quyết 28 của Trung ương về cải cách chính sách tiền lương, đã là thị trường, thì cần thiết phải có sự đồng bộ dưới sự quản lý của Nhà nước để đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, phân tiền lương theo hiệu quả sản xuất kinh doanh và thỏa thuận, đảm bảo mối quan hệ lao động hài hòa. Đồng thời, cần nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức công đoàn, tích cực đối thoại để quyền lợi các bên được đảm bảo khi giải quyết tranh chấp lao động./.

Hồng Ánh

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư