Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số: Giải pháp để Sơn La đạt được các mục tiêu trong 5 năm tới

11:47 | 20/05/2021 Print
- Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra 3 khâu đột phá chiến lược, trong đó phát triển kinh tế số có tầm quan trọng đặc biệt. Bài nghiên cứu làm rõ nội hàm của kinh tế số, nhận diện cơ hội và gợi mở giải pháp, cụ thể là với tỉnh Sơn La, nhằm đạt được các mục tiêu đã định tại “Kế hoạch chuyển đổi số tỉnh Sơn La đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, do UBND tỉnh ban hành.

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ để phát triển theo hướng văn minh, hiện đại. Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến việc ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ để thực hiện quá trình chuyển đổi số quốc gia và từng bước phát triển nền kinh tế số. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã đề ra 03 khâu đột phá chiến lược mà trong đó: “(3) Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội...; Chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số” là khâu đột phá có tầm quan trọng đặc biệt.

Quảng trường Tây Bắc, Thành phố Sơn La

Cùng với cả nước, Sơn La đang tập trung thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số và phát triển kinh tế số. Tuy nhiên, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trên một số lĩnh vực chủ yếu của tỉnh là một vấn đề mới, cần được nghiên cứu một cách khoa học và toàn diện theo đúng lộ trình phát triển chung của cả nước và phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh.

1. Khái niệm chuyển đổi số và kinh tế số

1.1. Số hóa, chuyển đổi số và không gian số

1.1.1 Số hóa

Số hóa (digitization) là quá trình chuyển đổi thông tin trên giấy và các quy trình thủ công thành định dạng kỹ thuật số, trong đó thông tin được tổ chức thành các Bit và Byte (Bit là đơn vị thông tin. Một bit chỉ có thể nhận và hiểu được 2 giá trị: đúng hoặc sai, bật hoặc tắt, có hoặc không. Một Byte tương đương với 8 Bit và là đơn vị bộ nhớ nhỏ nhất có thể được xử lý trong nhiều hệ thống máy tính).

Số hóa được giải thích về mặt kỹ thuật là sự biểu diễn của tín hiệu, hình ảnh, âm thanh và các đối tượng bằng cách tạo ra một chuỗi số (Chuỗi số nhị phân với những giá trị rời rạc).

Số hóa tồn tại dưới hai hình thức, đó là Số hóa dữ liệu và Số hóa quy trình; trong đó Số hóa dữ liệu là bước đệm hướng tới Số hóa quy trình.

Số hóa dữ liệu là hình thức chuyển đổi thông tin từ dạng vật lý sang định dạng kỹ thuật số.

Số hóa quy trình là việc sử dụng các dữ liệu đã được chuyển sang định dạng kỹ thuật số để cải thiện '”quy trình tổ chức”' hoặc “quy trình kinh doanh” của sự thay đổi do công nghệ gây ra trong các ngành, tổ chức, thị trường và chi nhánh.

Số hóa tổ chức đã tạo ra Chính phủ điện tử với các dịch vụ trực tuyến, nhận dạng diện tử, tự động hóa các hoạt động văn phòng... Số hóa doanh nghiệp tạo ra các mô hình kinh doanh mới, thanh toán điện tử. Số hóa giáo dục đã tạo ra các khóa học trực tuyến (không giới hạn số người tham gia)...

1.1.2. Chuyển đổi số

Chuyển đổi số là một quá trình áp dụng số hóa và ứng dụng số hóa nhưng ở một cấp độ cao hơn. Chuyển đổi số là một chuỗi những hoạt động thay đổi về cách thức vận hành và những việc làm cụ thể từ trước đến nay. Ví dụ, công việc viết thư cho khách hàng mỗi ngày qua dịch vụ viễn thông (CMS) trước đây là một công việc thủ công, nhưng sau quá trình số hóa thông tin và ứng dụng số hóa, công việc này được thực hiện bằng hệ thống tự động. Ngoài ra, hệ thống còn có thể gọi tự động cho khách hàng và khách hàng có thể tương tác trong thời gian diễn ra cuộc gọi để nhận thông tin.

Chuyển đổi số không chỉ tác động đến những tổ chức hay doanh nghiệp mà còn tác động đến những nhóm đối tượng khác xoay quanh như là khách hàng, đối tác, nguồn nhân lực, kênh phân phối... Trong một nền kinh tế chia sẻ, những tiến bộ trong công nghệ số trao quyền như nhau cho cả cá nhân và doanh nghiệp. Các khoản thanh toán được thực hiện bằng một cú chạm trên chiếc smartphone, hàng hóa được đặt trên các trang web và được giao dịch phi biên giới, viễn cảnh con người sẽ sớm di chuyển vào không gian số đã trở thành hiện thực.

1.1.3 Không gian số

Không gian (theo Triết học Mác - Lênin) là một hình thức tồn tại của vật chất. Không gian luôn có ba chiều cơ bản (chiều dài, chiều rộng, chiều cao).

Không gian mạng là một không gian ảo, một mạng lưới toàn cầu của các cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phụ thuộc lẫn nhau, bao gồm mạng viễn thông và các hệ thống máy tính trao đổi dữ liệu, thông tin. Luật An ninh mạng có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019 quy định: “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”. Không gian mạng cũng được xem như nơi mà các cá nhân có thể tương tác, trao đổi ý kiến​​, chia sẻ thông tin, cung cấp các dịch vụ, chơi trò chơi, tham gia vào các cuộc thảo luận về các phương diện khác nhau trên mạng lưới toàn cầu.

Không gian số là không gian mạng mà trong đó mọi tổ chức, cá nhân có thể sử dụng công nghệ số để phát triển các nền tảng mà tổ chức, cá nhân khác có thể sử dụng; đồng thời có thể tương tác với những thứ mà mọi tổ chức, cá nhân khác đã phát triển. Trên các diễn đàn công nghệ hiện nay, người ta đang khuyến khích các tổ chức, cá nhân di cư vào không gian số; điều đó có nghĩa mọi sẽ người sống và làm việc trong một không gian với chiếc điện thoại thông minh cầm trên tay: “Không gian số đang dần trở thành Không gian sống”.

1.2. Khái niệm về kinh tế và kinh tế số

1.2.1. Khái niệm về kinh tế

Kinh tế là khái niệm bắt nguồn từ phương Tây (Tiếng Anh là Economics). Khái niệm này khi được dịch sang tiếng Nhật thì người Nhật đã chọn cụm từ "Kinh bang Tế thế". Nguyên nghĩa của cụm từ này là các công việc mà một vị vua phải đảm nhiệm: chăm lo đời sống vật chất cho bề tôi, chăm lo đời sống tinh thần cho cộng đồng. Kinh tế là hình thức rút gọn của cụm từ “Kinh bang Tế thế”, “Kinh bang” có nghĩa là trị nước và “Tế thế” có nghĩa là cứu đời. Người Nhật cho rằng, hoạt động kinh tế là để đem lại lợi ích cho xã hội chứ không phải chỉ mưu cầu lợi ích cá nhân.

Kinh tế (theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê - Nin) là hoạt động sản xuất của cải vật chất, là toàn bộ phương thức sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội; là tổng hòa các mối quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức, quản lý và quan hệ phân phối, lưu thông sản phẩm xã hội), dựa trên một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, tạo nên kết cấu kinh tế của chế độ xã hội hay cơ sở hạ tầng kinh tế của xã hội.

Trong Từ điển tiếng Việt có khái niệm: “Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của con người và xã hội - liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối, tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực khan hiếm”. Các nguồn lực đó bao gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học - công nghệ và nguồn lực con người. Trong đó, nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia, mỗi địa phương.

1.2.2. Kinh tế số

Kinh tế số được định nghĩa là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số và những mô hình kinh doanh mới được tạo ra từ việc áp dụng công nghệ số và dữ liệu số. Kinh tế số không chỉ tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng cho các nền kinh tế, mà còn làm các nền kinh tế thay đổi trên cả hai bình diện: phương thức sản xuất (nguồn lực, hạ tầng, cách thức vận hành sản xuất kinh doanh) và cấu trúc kinh tế. Trong đó, đáng chú ý là bên cạnh các nguồn lực truyền thống, xuất hiện các nguồn lực phát triển mới là tài nguyên số và của cải số. Trung Quốc đang chủ trương phát triển mạng 5G thế hệ mới lớn nhất thế giới. Thụy Sĩ hiện là nước đầu tiên trên thế giới đã được xây dựng được “nền kinh tế số” và hình thành được thị trường quản lý kỹ thuật số.

Khái niệm “Nền kinh tế số” cần được hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa rộng.

Theo nghĩa hẹp (Kinh tế số lõi): Chỉ bao gồm lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông; trong đó có sản xuất thiết bị công nghệ thông tin và truyền thông, các thiết bị bán dẫn, các dịch vụ viễn thông, xử lý dữ liệu và các dịch vụ thông tin khác, phát triển phầm mềm...

Theo nghĩa rộng (Kinh tế số phạm vi hẹp), bổ sung thêm vào kinh tế số lõi các dịch vụ như dịch vụ số, kinh tế nền tảng, kinh tế chia sẻ, kinh tế gắn kết lỏng.

Theo nghĩa rộng nhất (Kinh tế số hóa), bổ sung thêm vào kinh tế số phạm vi hẹp các hoạt động như thương mại điện tử, công nghiệp 4.0, nông nghiệp chính xác, du lịch điện tử, kinh tế thuật toán...

Nền kinh tế số bao gồm tất cả các doanh nghiệp, dịch vụ có mô hình kinh doanh chủ yếu dựa trên việc mua bán hoặc cung cấp các sản phẩm số, dịch vụ số hoặc các thiết bị và cơ sở hạ tầng hỗ trợ. Ba thành phần chính trong nền kinh tế số bao gồm doanh nghiệp số, hạ tầng kinh doanh số và thương mại điện tử. Có ba chỉ tiêu cơ bản phản ánh mức độ phát triển kinh tế số (KTS), đó là (i) tỷ trọng KTS/GDP; (ii) tỷ trọng KTS/GDP tối thiểu trong từng ngành, lĩnh vực.; (iii) mức độ tăng trưởng KTS/năm và mức đóng góp của tăng trưởng KTS vào tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế.

1.3. Mối quan hệ giữa số hóa, chuyển đổi số và kinh tế số

Số hóa là một trong những bước đầu của quá trình chuyển đổi số và đây là bước bắt buộc phải có nếu muốn tham gia vào chuyển đổi số để phát triển kinh tế số. Tại Việt Nam, xu hướng số hóa hay công cuộc chuyển đổi số đang xuất hiện ở mọi lĩnh vực từ thương mại, tài chính, ngân hàng cho đến y tế, giáo dục, du lịch, vận chuyển...

Kinh tế số đang dần trở thành chính bản thân nền kinh tế, nội hàm của kinh tế số cũng dần trùng khít với các nội hàm của khái niệm kinh tế, bao gồm tất cả các lĩnh vực và ngành kinh tế: từ công nghiệp, nông nghiệp cho đến dịch vụ; từ sản xuất đến phân phối và lưu thông hàng hóa cho đến các hạ tầng hỗ trợ như giao thông vận tải, logistics, tài chính, ngân hàng..., trong đó công nghệ số được ứng dụng. Đặc trưng lớn nhất của kinh tế số là tính kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành tựu của công nghệ thông tin và Internet. Tính kết nối không biên giới giúp tối ưu hóa các nguồn lực để sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng tốt nhất với nhu cầu của thị trường, giúp lược bỏ nhiều khâu trung gian trong dây chuyền cung ứng và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu cho các chủ thể than gia hoạt động trong nền kinh tế.

Như vậy, muốn phát triển kinh tế số thì từng bước phải thực hiện chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.

2. Phát triển kinh tế số, cơ hội trong thời kỳ mới

Chuyển đổi số và phát triển kinh tế số tác động sâu rộng, bao trùm lên tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế - xã hội, góp phần tăng năng suất lao động, chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh theo hướng đổi mới sáng tạo, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Chuyển đổi số không chỉ là cuộc cách mạng của công nghệ, mà còn là cuộc cách mạng về thể chế. Thể chế cần đi trước một bước và được điều chỉnh linh hoạt để chấp nhận những cái mới: công nghệ mới, sản phẩm mới, dịch vụ mới, mô hình mới. Chỉ có đổi mới sáng tạo, Việt Nam mới thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Năm 2020 được xác định là năm khởi động chuyển đổi số quốc gia. Nhận thức của toàn xã hội về chuyển đổi số đang thay đổi nhanh chóng. Giai đoạn 2021 - 2025 sẽ là giai đoạn tăng tốc với những hành động triển khai cụ thể theo từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương. Ở cấp độ quốc gia, chuyển đổi số là chuyển đổi sang chính phủ số, kinh tế số và xã hội số quốc gia. Ở cấp độ địa phương, chuyển đổi số là chuyển đổi sang chính quyền số, kinh tế số và xã hội số trên địa bàn của địa phương đó. Các địa phương chuyển đổi số thành công sẽ đóng góp vào thành công chung của chuyển đổi số quốc gia. Đổi mới là con đường tất yếu không có lựa chọn khác nếu muốn phát triển nhanh và bền vững. Hiện cả nước có 45.500 doanh nghiệp công nghệ thông tin, năm 2020 đạt tổng doanh thu trên 130 tỷ USD. Theo Báo cáo Kinh tế số Đông Nam Á (SEA) được Google và Temasek công bố ngày 10/11/2020 thì giá trị kinh tế số của Việt Nam năm 2020 đạt khoảng 14 tỷ USD, chiếm 4,6% GDP.

Từ năm 2019, Bộ Chính trị đã chủ trương phát triển mạnh mẽ kinh tế số (Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019). Ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg về việc Phê duyệt “Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó đã xác định mục tiêu: Cả nước phấn đấu tăng tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 từ dưới 20% (năm 2020) lên 80% (năm 2025) và 100% (năm 2030). Tăng tỷ trọng KTS/GDP từ 4,6% (năm 2020) lên 20% (năm 2025) và 30% (năm 2030). Mục tiêu chiến lược là Việt Nam trở thành quốc gia số, ổn định và thịnh vượng, tiên phong thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới; đổi mới căn bản, toàn diện hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phương thức sống, làm việc của người dân, phát triển môi trường số an toàn, nhân văn, rộng khắp. Vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu.

3. Chuyển đổi số và phát triển kinh tế số tại Sơn La

Sơn La là một tỉnh miền núi và biên giới phía Tây Bắc Việt Nam, có vị trí chiến lược về an ninh quốc phòng, có nhiều lợi thế về đất đai, khí hậu để phát triển các sản phẩm nông sản chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến. Trong những năm qua, nhờ ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, từ một tỉnh miền núi đặc biệt khó khăn, Sơn La đã nỗ lực làm bật dậy những tiềm năng, tạo những bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội. Nền kinh tế của tỉnh luôn giữ được thế ổn định và có nhiều mặt phát triển và tiến bộ.

Những năm qua, chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh Sơn La bước đầu đã có đóng góp vào sự phát triển chung của tỉnh. Cụ thể, các cấp ủy Đảng, Chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã tích cực ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác chỉ đạo, điều hành. Trung tâm điều hành thông minh, trung tâm tích hợp dữ liệu của Tỉnh được đầu tư, xây dựng; các hệ thống dùng chung như: thư điện tử, quản lý văn bản đi đến, cổng, trang thông tin điện tử, cổng dịch vụ công và một cửa điện tử, giao ban điện tử. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của cơ quan Đảng, Nhà nước trên địa bàn toàn tỉnh được triển khai liên thông 3 cấp hành chính, từ tỉnh đến xã và kết nối với Trung ương ...

Theo Báo cáo của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Sơn La, đến hết năm 2020, việc cung cấp dịch vụ công mức độ 4 phục vụ giải quyết thủ tục hành chính qua mạng trong toàn tỉnh đạt 21,9%. Các sở, ban, ngành cấp tỉnh tỷ lệ tiếp nhận và xử lý hồ sơ điện tử đạt 100%. Trên địa bàn tỉnh Sơn La, tỷ lệ xã có hạ tầng băng rộng cáp quang đạt 89% (182/204 xã); Tỷ lệ hộ gia đình có thuê bao cáp quang đạt 28%; Tỷ lệ cơ quan Nhà nước có kết nối băng rộng cố định đạt 500/525 đơn vị. Có 1.355 tuyến truyền dẫn cáp quang với tổng chiều dài 8.512 km đến tất cả các huyện, thành phố và 204/204 xã, phường, thị trấn. Hạ tầng viễn thông được các doanh nghiệp tiếp tục được chú trọng đầu tư tới vùng sâu, vùng xa, đặc biệt đã triển khai mạng di động 3G đến 100% xã, phường, thị trấn; mạng di động 4G đến 96% xã phường thị trấn; tỉ lệ dân số được phủ sóng 3G đạt 80,52%; tỷ lệ dân số được phủ sóng 4G đạt 81,43%, tốc độ tải dữ liệu 4G đạt 30 Mb/s.

Kinh tế số đang từng bước được ứng dụng trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y tế, giáo dục và dịch vụ; xuất hiện nhiều hình thức kinh doanh, dịch vụ mới, dựa trên nền tảng công nghệ số và Internet. Nếu cả nước kinh tế số chiếm khoảng 4,6% GDP (chủ yếu trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI) thì kinh tế số của Sơn La mới chiếm khoảng 1% GRDP. Mặc dù tỷ lệ chuyển đổi sang kinh tế số trong toàn bộ nền kinh tế của tỉnh chưa nhiều, nhưng phải khẳng định rằng, kinh tế số đã có những đóng góp vào sự phát triển chung của tỉnh Sơn La, góp phần tạo việc làm và nâng cao thu nhập, chất lượng cuộc sống của người dân.

Bên cạnh những thành tựu bước đầu, quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số của tỉnh còn bộc lộ một số hạn chế: Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin chưa được đầu tư đồng bộ (năm 2019, xếp thứ 39/63 tỉnh, thành phố trên cả nước); nhiều doanh nghiệp của tỉnh Sơn La còn chưa chủ động tiếp cận, ứng dụng, phát triển công nghệ hiện đại; quy mô kinh tế số còn nhỏ; chuyển đổi số đặt ra nhiều thách thức cả về kinh tế và xã hội, nhất là ở các vùng khó khăn, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, ... Công tác đấu tranh với tội phạm trên không gian mạng, bảo đảm an toàn, an ninh mạng còn khó khăn, thách thức. Cơ chế, chính sách và các quy định cho ứng dụng công nghệ thông tin còn hạn chế (năm 2019 xếp thứ 58/63 tỉnh, thành phố).

Cùng với đó, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin còn thấp (năm 2019 xếp thứ 44/63 tỉnh, thành phố); số doanh nghiệp công nghệ thông tin phục vụ quá trình chuyển đổi số chưa nhiều, toàn tỉnh có 553 doanh nghiệp có đăng ký ngành nghề kinh doanh liên quan đến công nghệ thông tin với 1.218 lao động trong lĩnh vực công nghệ thông tin (mức thu nhập sản xuất sản phẩm công nghệ thông tin trung bình 80 triệu đồng/người/năm và thu nhập kinh doanh, phân phối trung bình 62 triệu đồng/người/năm). Mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông năm 2019 xếp thứ 46/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Theo báo cáo thường niên ngày 13/7/2020 về Chỉ số sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam (Viet Nam ICT Index) của Bộ Thông tin và Truyền thông).

Những hạn chế nêu trên đến từ nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Đó là, nhận thức về chuyển đổi số của cán bộ, công chức, viên chức, người dân và trong đời sống xã hội còn chưa đầy đủ; nguồn lực đầu tư cho công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; tư duy trong chuyển đổi số chậm đổi mới, sức ỳ lớn; quản lý nhà nước về chuyển đổi số chưa theo kịp thực tiễn; sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị, địa phương chưa thật sự chặt chẽ...

4. Giải pháp để chuyển đổi số, kinh tế số tỉnh Sơn La đạt mục tiêu đã định

"Sơn La có nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững trong tiến trình thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số, phát triển kinh tế số" - TS. Nguyễn Minh Đức

Ngày 05/10/2020, UBND tỉnh Sơn La đã ban hành “Kế hoạch chuyển đổi số tỉnh Sơn La đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, đặt mục tiêu năm 2025, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến cấp độ 3 và 4 là 100%, trong đó 80% đạt mức độ 4; tỷ trọng KTS/GRDP là 10%. Đến năm 2030, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 là 100%; tỷ trọng KTS/GRDP là 15 - 20%, trong đó tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.

Để thực hiện được các mục tiêu đề ra, tỉnh Sơn La cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm.

Thứ nhất, xây dựng và cụ thể hóa các cơ chế, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế số.

Trước hết, cần nhanh chóng cụ thể hóa chủ trương, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế số, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đầu tư, kinh doanh trong môi trường kinh tế số; tạo lập, khuyến khích và bảo đảm bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp và thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trực tuyến và ngoại tuyến về môi trường khởi nghiệp, đầu tư, về quyền và nghĩa vụ thuế; tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong môi trường kinh tế số. Đặc biệt, cần xem xét nghĩa vụ thuế đối với các hoạt động kinh doanh trực tuyến và thương mại điện tử.

Mặc dù Sơn La đã có “Kế hoạch chuyển đổi số tỉnh Sơn La đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, gồm các chỉ tiêu phát triển Chính quyền số, Kinh tế số và Xã hội số, nhưng phát triển kinh tế số là một vấn đề mới, chưa có mô hình chuẩn trên cả nước. Vì vậy các tỉnh, thành phố nói chung và Sơn La nói riêng cần phải xây dựng và triển khai một Chương trình hoặc một Đề án với những nội dung và bước đi cụ thể mới có thể thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quan trọng đã đặt ra.

Thứ hai, phải triển khai đồng bộ kế hoạch chuyển đổi số, phát triển kinh tế số của các sở, ban, ngành, UBND các huyện thành phố.

Điều này bao gồm việc xây dựng một nền hành chính công vụ thông minh, gọn nhẹ, kỷ cương, liêm chính và kiến tạo, đột phá trong tinh giản hóa và nâng cao hiệu quả quản trị của bộ máy nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã. Chuyển từ tư duy quản lý sang tư duy quản trị điều hành, mạnh mẽ xóa bỏ các tổ chức quản lý trung gian, nhanh chóng và đồng bộ số hóa bộ máy quản lý nhà nước các cấp cũng như xây dựng và triển khai chiến lược, các chính sách thúc đẩy chuyển đổi số của tỉnh và doanh nghiệp. Để thực hiện được yêu cầu này, các sở, ban, ngành của tỉnh, UBND các huyện thành phố phải xây dựng cho được kế hoạch chuyển đổi số, phát triển kinh tế số của ngành mình, đơn vị mình; gắn với việc đào tạo cán bộ sử dụng thành thạo công nghệ số trong các hoạt động quản lý và tác nghiệp.

Thứ ba, tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng cứng và mềm cho chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số.

Đầu tư phát triển và phổ cập hóa kết cấu hạ tầng Internet băng thông rộng, bảo đảm việc tiếp cận điện năng, hệ thống thanh toán điện tử, hạ tầng chứng thực chứng từ điện tử và hỗ trợ xác thực thông tin giao dịch, các hệ thống quản lý, giám sát giao dịch điện tử, các cơ chế giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử... cần sớm được hoàn thiện.

Cùng với nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng cứng, cần tăng cường đầu tư mạnh mẽ cho khoa học - công nghệ và giáo dục. Từng bước đổi mới giáo dục và đào tạo theo yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế số. Cụ thể, cần (i) Xây dựng chiến lược đào tạo và thu hút tài năng công nghệ; (ii) Phát triển nguồn nhân lực công nghệ, nhất là công nghệ thông tin cả về lượng và chất; (iii) Đổi mới và cập nhật chương trình, giáo trình đào tạo gắn với xu thế phát triển kinh tế số, nhất là đào tạo nhân lực công nghệ thông tin, tài chính công nghệ trong thời đại số; (iv) Tạo điều kiện để học sinh các cấp sớm tiếp cận tri thức về công nghệ thông tin và những lĩnh vực công nghệ lõi của công nghệ 4.0.

Thứ tư, hỗ trợ nâng cao năng lực và sức cạnh tranh của doanh nghiệp, hợp tác xã đồng thời chú trọng bồi dưỡng, phổ biến, trang bị kiến thức cho đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu của kinh tế số.

Có kiến thức và tư duy về kinh tế số là quan trọng nhưng có tư duy hội nhập, thích ứng với thị trường kinh tế số quốc tế và xu hướng công nghệ 4.0 càng quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp, hợp tác xã dù lớn hay nhỏ trước môi trường cạnh tranh ngày càng mang tính quốc tế qua không gian mạng. Tư duy quản trị và vận hành chuyên nghiệp, theo quy chuẩn quốc tế cũng cần được chú ý định hình trong mỗi doanh nghiệp, hợp tác xã và toàn nền kinh tế. Chính vì vậy, tỉnh Sơn La cần xây dựng cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp, hợp tác xã trong quá trình thực hiện chuyển đổi các hoạt động theo yêu cầu của kinh tế số. Từng bước thực hiện số hóa các sản phẩm và dịch vụ, đẩy mạnh các hoạt động giao dịch thương mại điện tử, thanh toán điện tử, xuất nhập khẩu trực tiếp.

Thứ năm, tiếp tục khơi dậy và tạo động lực cho văn hóa khởi nghiệp sáng tạo, nhất là trong tầng lớp thanh niên.

Để phát triển kinh tế số trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, rất cần có những mô hình kinh doanh mới - các mô hình kinh doanh dựa trên nền tảng của công nghệ số, không gian số. Chính vì vậy trong kế hoạch khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Tỉnh hàng năm cần chú trọng đến khâu tuyên tryền và tập huấn, nhằm thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp nói chung, tầng lớp thanh niên nói riêng. Sớm hình thành “Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo” của Tỉnh, đồng thời phải đầu tư xây dựng vườn ươm doanh nghiệp và hệ sinh thái khởi nghiệp, khuyến khích hình thành các quỹ đầu tư mạo hiểm.

Thứ sáu, coi trọng công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh chính trị, an ninh văn hóa và an ninh quốc gia nói chung qua không gian mạng, giám sát và phòng, chống hiệu quả các loại tội phạm mạng, tội phạm công nghệ cao. Điều này cần được quan tâm cả ở cấp quốc gia cũng như trong mỗi cơ quan, đơn vị các cấp và từng doanh nghiệp, nhất là hệ thống tài chính - tiền tệ và các cơ quan Nhà nước đã thực hiện chuyển đổi số, các doanh nghiệp bước vào thực hiện kinh tế số. Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến và tăng cường giám sát các hoạt động của mọi tổ chức và cá nhân, đảm bảo mọi hoạt động phải tuân thủ Luật An ninh mạng 2018. Không gian số có những ưu việt, nhưng cũng luôn có những rình rập hiểm nguy của tội phạm an công nghệ. Mọi tổ chức và cá nhân trước khi bước vào lĩnh vực này cần phải tự trang bị khối kiến thức cần thiết để hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra.

5. Kết luận

Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là một nhiệm vụ trọng tâm của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương. Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng, trong phát biểu ngày 13/3/2021 tại Bắc Giang vừa qua đã nói: “Chuyển đổi số, phát triển kinh tế số là cuộc cách mạng về thể chế nhiều hơn là cuộc cách mạng về công nghệ. Người đứng đầu tổ chức phải là người dẫn dắt quá trình này”. Vì vậy, Sơn La phải đi đầu trong nhiệm vụ này thì mới có cơ hội bứt phá vươn lên. Phải huy động được sự vào cuộc của mọi tổ chức và cá nhân trong tỉnh, song song với quyết tâm chính trị của cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp.

Do chuyển đổi số, kinh tế số là những vấn đề mới, nhạy cảm, nên rất cần có sự đầu tư nghiên cứu cả về mặt lý luận mang tính khoa học, đồng thời phải tập trung xây dựng các mô hình điểm trong các ngành, lĩnh vực, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh mang lại hiệu quả ngay để nhân rộng với những bước đi vững chắc. Sơn La có nhiều cơ hội để phát triển nhanh và bền vững trong tiến trình thực hiện nhiệm vụ này./.

TS. Nguyễn Minh Đức, Phó Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học & Kỹ thuật tỉnh Sơn La

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư