e-ISSN: 2734-9365

Trang chủ/Sự kiện/Chính sách

Xây dựng chiến lược phục hồi và tham gia chuỗi cung ứng hậu Covid-19

19:29 | 02/07/2021 Print
Đánh giá lại tác động của dịch Covid-19 lên chuỗi cung ứng của một số ngành tại Việt Nam, từ đó khuyến nghị chính sách nhằm tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp nội địa vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong bối cảnh dịch Covid-19.

Đây là mục tiêu nghiên cứu của Báo cáo về chuỗi cung ứng của một số ngành trong bối cảnh Covid-19, trước mắt tập trung vào 3 ngành: Nông nghiệp; Chế biến thực phẩm và Ô tô - Xe điện. Báo cáo được xây dựng trong khuôn khổ dự án hợp tác nghiên cứu, xây dựng chính sách giữa Bộ Kế hoạch và Đầu tư với Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam.

Còn nhiều bất cập trong chuỗi cung ứng ngành

Chia sẻ về kết quả nghiên cứu tại buổi giới thiệu Báo cáo dự án diễn ra sáng nay 2/7 tại Hà Nội do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng chủ trì, Công ty TNHH Ernst & Young Việt Nam, với vai trò là công ty tư vấn chịu trách nhiêm thực hiện nghiên cứu cho biết, dịch Covid-19 đã bộc lộ những điểm yếu trong chuỗi cung ứng của ngành nông nghiệp và chế biến thực phẩm, dẫn đến những thách thức cho doanh nghiệp trong việc ứng phó với sự gián đoạn thị trường trong bối cảnh đại dịch.

Xây dựng chiến lược phục hồi và tham gia chuỗi cung ứng hậu Covid-19
Đại diện đơn vị tư vấn báo cáo về dự án nghiên cứu phục hồi chuỗi cung ứng của một số ngành trong bối cảnh Covid-19

Các vấn đề nổi cộm bao gồm hệ thống logistics kém phát triển; kênh phân phối chính là xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới và chợ truyền thống; khả năng áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và khả năng truy xuất nguồn gốc để đáp ứng các yêu cầu của thị trường quốc tế; năng lực về R&D để tham gia vào các hoạt động mang giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng cũng như thay thế hàng hóa nhập khẩu; và năng lực xây dựng thương hiệu.

Đối với ngành ô tô, mặc dù Covid-19 không tác động trực tiếp đến ngành ô tô Việt Nam, nhưng đại dịch cũng đã góp phần thúc đẩy 2 xu hướng toàn cầu tác động gián tiếp đến ngành, đó là sự chuyển dịch, xu hướng mới nổi về phương tiện giao thông không phát thải, và sự chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu của các công ty đa quốc gia trong ngành. Ngành ô tô Việt Nam còn nhiều hạn chế với các vấn đề cố hữu: thị trường nhỏ cho mỗi mẫu xe (tính kinh tế về quy mô); và sự kém cạnh tranh về chi phí lắp ráp ô tô (CKD) tại Việt Nam đến từ chi phí logistics nhập khẩu linh kiện, phụ tùng.

Tuy nhiên, theo đại diện Ernst & Young, đại dịch cũng đã mang lại nhiều cơ hội cho cả ba ngành. Ngành nông nghiệp và chế biến thực phẩm có tiềm năng lớn khi tận dụng và chế biến các sản phẩm nông nghiệp địa phương, tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp địa phương vào chuỗi giá trị trong nước và toàn cầu, đồng thời thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp FDI để phát triển ngành. Bên cạnh đó, xu hướng xe điện nổi lên nhanh chóng tạo đã cơ hội cho Việt Nam củng cố vị thế của mình trong chuỗi giá trị ô tô toàn cầu thông qua việc thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia và tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp nội địa vào hệ sinh thái xe điện.

Dựa trên cơ sở phân tích này, Ernst & Young đã xác định các chính sách hỗ trợ và biện pháp can thiệp tiềm năng, cũng như soạn thảo khung phát triển để thực hiện các chính sách này cho các hành động trong ngắn hạn (6 tháng), trung hạn (1 năm) và dài hạn (3 năm) để hỗ trợ phục hồi từ dịch Covid-19 và tăng cường sự tham gia của khối doanh nghiệp tư nhân vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Cải thiện chuỗi cung ứng ngành Nông nghiệp và Chế biến thực phẩm

Cụ thể, đối với 2 ngành nông nghiệp và thực phẩm, đại diện đơn vị tư vấn đề xuất các khuyến nghị chính sách theo 3 giai đoạn.

Xây dựng chiến lược phục hồi và thúc đẩy tham gia chuỗi cung ứng 3 ngành hậu Covid-19

Trong trung hạn, theo khuyến nghị của đơn vị tư vấn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần nâng cao các tiêu chuẩn và áp dụng truy xuất nguồn gốc, tăng cường nghiên cứu và phát triển các giống cây trồng, vật nuôi, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Đồng thời, Chính phủ cần có một chiến dịch truyền thông để nâng cao nhận thức của người dân về giá trị nông sản Việt, từ đó dần xây dựng thương hiệu nông sản Việt Nam trong nước và quốc tế.Trong ngắn hạn, trước mắt cần cải tiến trong công đoạn sơ chế, bảo quản (đặc biệt là kho lạnh) và phân phối thông qua thiết lập các Trung tâm dịch vụ chia sẻ (CFC) và tạo các điểm kết nối mua bán (B2B). Đây là giải pháp cần thiết để ứng phó với sự gián đoạn thị trường nông sản trong bối cảnh đại dịch, hỗ trợ nông sản kéo dài thời gian bảo quản và hạn chế đứt gãy trong kênh phân phối.

Trong dài hạn, các kho hàng không, hệ thống thương mại điện tử chuyên dụng cho nông nghiệp cần được thiết lập. Các doanh nghiệp lớn của Việt Nam cần tham gia giai đoạn này để có thể dẫn dắt chuỗi cung ứng nông sản.

Cân bằng cung cầu đối với ngành Công nghiệp ô tô và xe điện

Đối với ngành ô tô, các đề xuất tập trung vào việc chuyển đổi sang chiến lược phát triển xe điện, được khuyến nghị thực hiện trong thời gian trung và dài hạn.

Xây dựng chiến lược phục hồi và thúc đẩy tham gia chuỗi cung ứng 3 ngành hậu Covid-19

Trước hết, thành lập cơ quan ở cấp trung ương điều phối về mặt chiến lược tất cả các Bộ liên quan trong việc xây dựng và triển khai lộ trình. Tiếp theo về mặt cung, xác định những cấu phần trong chuỗi cung ứng xe điện toàn cầu mà các doanh nghiệp trong nước có thể tham gia, hoặc có thể khuyến khích được FDI để thúc đẩy sự tham gia của các DNVVN. Xác định các khu vực địa lý ưu tiên và các chính sách trọng yếu để phổ biến xe điện cùng với các mốc thời gian dự kiến. Xây dựng bộ tiêu chuẩn và yêu cầu các nhà sản xuất tuân thủ một tiêu chuẩn chung để khuyến khích sản xuất trong nước.Cụ thể, Ernst & Young đề xuất xây dựng một lộ trình cấp quốc gia về triển khai và áp dụng xe điện với sự cân bằng giữa hai yếu tố cung và cầu. Lộ trình xác định các chính sách khuyến khích cần thiết để thúc đẩy các cơ hội cho sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào các cấu phần của chuỗi cung ứng xe điện toàn cầu mà Việt Nam có thế mạnh tiềm năng. Mục tiêu chính của lộ trình là thay thế nhập khẩu hoặc thậm chí, tham gia vào hoạt động xuất khẩu.

Trong giai đoạn đầu, lộ trình cần tập trung vào việc tận dụng năng lực trong nước, đặc biệt là trong hoạt động sản xuất xe điện 2 bánh có rào cản công nghệ thấp. Lộ trình cần bao gồm cả việc thiết kế và triển khai các chiến dịch nâng cao nhận thức và chương trình đào tạo kỹ năng cấp quốc gia về xe điện.

Về mặt cầu, lộ trình cần khuyến khích việc sử dụng xe điện thông qua việc xây dựng tiêu chuẩn khí thải chuyên biệt cho các loại xe trên thị trường, có lộ trình rõ ràng cho việc áp dụng phương tiện không phát thải; đưa ra các yêu cầu về sản xuất, bán hàng cho các nhà sản xuất thiết bị gốc (OEM) dựa trên các tiêu chí về chất lượng sản phẩm; đặt ra tiêu chuẩn xếp hạng về hiệu suất năng lượng cho các phương tiện để giúp quá trình mua bán dễ dàng và đồng thời, giúp thúc đẩy cạnh tranh giữa các nhà sản xuất; giới thiệu các gói ưu đãi phi tài chính cho xe điện, các chương trình mua lại xe điện, và giảm trợ cấp hoặc giảm ưu đãi thuế cho các phương tiện động cơ đốt trong.

Để phát triển hạ tầng cơ sở sạc điện, Ernst & Young đề xuất phân tích toàn diện về mức độ sử dụng, mật độ phương tiện, mô hình giao thông và tình trạng tắc nghẽn. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch phát triển hạ tầng cơ sở sạc điện, xác định vị trí để đảm bảo các trạm sạc được đặt tại các vị trí thuận tiện, phù hợp với cơ sở hạ tầng điện và mạng lưới điện. Các doanh nghiệp như EVN (hạ tầng lưới điện) và Petrolimex (mạng lưới trạm xăng) đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển hạ tầng sạc tại Việt Nam. Song song với đó là phát triển hệ sinh thái cho xe điện thông qua việc tham gia và dẫn dắt của các doanh nghiệp lớn của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như sản xuất thiết bị gốc (OEM), điện lực và dầu khí.

Cần gắn với chương trình tái cơ cấu nền kinh tế trung và dài hạn

Phát biểu chỉ đạo tại buổi báo cáo dự án, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh việc nghiên cứu xây dựng các giải pháp chính sách phục hồi các ngành trong bối cảnh đại dịch là vấn đề nóng hiện nay, gắn liền với chương trình phục hồi tổng thể nền kinh tế. Bộ trưởng lưu ý dự án cần bao phủ rộng hơn các ngành, lĩnh vực và lồng ghép với việc tái cơ cấu các ngành trong trung và dài hạn trong mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế.

“Dự án đang đề cập đến việc đứt gãy chuỗi cung ứng và các cơ hội mới gia tăng khi nhu cầu tăng trở lại và các chuỗi cung ứng sẽ tái cơ cấu phát triển mạnh mẽ trở lại sau đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, đây chỉ là vấn đề ngắn hạn trước mắt, còn về lâu dài các ngành kinh tế của Việt Nam cũng phải cơ cấu lại hết. Việc gắn kết chiến lược này như thế nào trong tái cơ cấu tổng thể lại các ngành trong trung và dài hạn là vấn đề rất quan trọng. Do đó, bên cạnh mục tiêu trong ngắn hạn là chống sự đứt gãy chuỗi cung ứng và tranh thủ cơ hội mới gia tăng hậu đại dịch, dự án cần hướng tới chiến lược trung và dài hạn tái cơ cấu các ngành theo hướng phát triển bền vững. Đó là mục tiêu cần hướng tới để tăng giá trị dự án chiến lược này”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nêu rõ vấn đề.

Bộ trưởng cũng nhấn mạnh, hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xây dựng chiến lược tăng trưởng xanh hướng tới phát triển kinh tế bền vững dài hạn, do đó, việc khuyến nghị xây dựng các chính sách hỗ trợ và giải pháp của Chính phủ đối với các ngành trong dự án cần bám sát chiến lược phát triển bền vững này.

Hiếu Phương

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư