e-ISSN: 2734-9365

Trang chủ/Dự báo kinh tế

VEPR công bố 3 kịch bản cho năm 2021, lường trước khả năng GDP chỉ tăng 3,5-4%

18:23 | 21/07/2021 Print
VEPR vừa công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô quý II và 6 tháng đầu năm, đồng thời đưa ra 3 kịch bản tăng trưởng cho năm 2021 với dự báo GDP tăng cao nhất 6,1%.

Quý II duy trì mức tăng trưởng cao 6,61%

Theo Báo cáo vừa được VEPR công bố, kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức 6,61% trong quý II/2021, cao hơn so với quý I/2021. Tăng trưởng quý II đạt mức cao trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang trên đà phục hồi trong 6 tháng đầu năm 2021 nhờ vào độ bao phủ tiêm chủng vaccine ngừa COVID19 của các quốc gia được mở rộng. Một số quốc gia đang có kế hoạch mở cửa trở lại sau khi đã kiểm soát được dịch bệnh trong quý III, trong đó có các thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Mỹ, châu Âu và Trung Quốc.

VEPR công bố 3 kịch bản cho năm 2021, lường trước khả năng GDP chỉ tăng 3,5-4%

VEPR dự báo GDP 2021 tăng cao nhất ở mức 6,1%
Kịch bản bất lợi được đưa ra trong trường hợp xấu nhất, dịch bệnh chưa thể được kiểm soát và các hoạt động kinh tế chưa thể trở lại bình thường cho tới quý IV/2021, VEPR dự báo kinh tế Việt Nam năm 2021 chỉ có thể tăng trưởng từ 3,5-4,0%.

Trong xu hướng tăng trưởng chung của quý II/2021, tăng trưởng của các khu vực nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đều tăng trong sáu tháng đầu năm. FDI tiếp tục là khu vực đóng góp chính vào tăng trưởng thông qua xuất khẩu. Lạm phát bình quân quý II/2021 tăng 2,67% so với cùng kỳ năm ngoái, lạm phát trong 6 tháng đầu năm tăng 1,47%, thấp nhất kể từ năm 2016, nhưng có nhiều sức ép gia tăng do chi phí sản xuất tăng cao và sự đứt gãy trong chuỗi cung ứng do các biện pháp phòng chống bệnh dịch. Cán cân thương mại thâm hụt do nhu cầu nhập khẩu tư liệu sản xuất của các doanh nghiệp nhằm phục hồi lại quá trình sản xuất. Lãi suất liên ngân hàng đột ngột tăng trở lại kể từ sau tháng Hai. Đáng chú ý, khu vực doanh nghiệp tiếp tục gặp nhiều khó khăn do nhiều yếu tố khách quan phát sinh. Bên cạnh tác động bởi dịch COVID-19, các doanh nghiệp tại Việt Nam phải gánh thêm chi phí sản xuất do giá nguyên vật liệu, chi phí vận tải và giá thuê đất tăng.

Theo đánh giá của PGS.TS. Phạm Thế Anh, Trưởng Bộ môn Kinh tế vĩ mô Trường Đại học Kinh tế quốc dân, đại diện nhóm chuyên gia thực hiện báo cáo, mức tăng trưởng cao trong quý II dựa trên một số yếu tố cơ bản. Trước hết, Chính phủ kiểm soát tốt dịch bệnh từ giai đoạn cuối quý I, giúp duy trì hoạt động kinh tế trong nước. Các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu đang mở cửa trở lại và các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI, tận dụng tốt hiệp định EVFTA để phục hồi quy trình sản xuất và xuất khẩu hàng hóa sang thị trường EU; tiến độ giải ngân và thi công các dự án đầu tư công trọng điểm được đẩy nhanh hơn; làn sóng dịch chuyển đầu tư và thương mại nhằm phân tán rủi ro từ cuộc xung đột thương mại Mỹ - Trung và sự gián đoạn của chuỗi cung ứng toàn cầu; môi trường vĩ mô ổn định, lạm phát kiểm soát được ở mức thâp được, tạo môi trường cho việc thực thi các chính sách hỗ trợ tăng trưởng.

Covid -19 tác động mạnh tới tăng trưởng 6 tháng cuối năm

Tuy nhiên, theo nhận định của PGS. TS Thế Anh, tình hình dịch COVID-19 bùng phát trở lại trong giữa và cuối quý II đã tiếp tục làm giám đoạn quá trình sản xuất của các doanh nghiệp tại địa phương đang bùng phát dịch. Mặt khác, điểm yếu của kinh tế Việt Nam còn đến từ các rủi ro nội tại như mất cân đối tài khóa lớn, tốc độ và mức độ đầu tư phát triển, đặc biệt là hạ tầng, còn chậm; sức khỏe hệ thống ngân hàng - tài chính tuy dần được củng cố, nhưng còn dễ tổn thương; sự phụ thuộc nặng nề của tăng trưởng vào khu vực FDI, thiếu tự chủ công nghệ và nguyên liệu; chất lượng lao động thấp và chậm cải thiện; hiệu quả đầu tư công thấp; tiến trình cổ phần hóa DNNN bị ngưng trệ, môi trường và thể chế kinh doanh dù từng bước được cải thiện nhưng về căn bản chưa giải phóng được sức mạnh của doanh nghiệp. Do đó, trong bối cảnh diễn biến dịch còn hết sức phức tạp, VEPR dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2021 khoảng 4,5%-5,1%, thấp hơn 1,2 – 1,5 điểm phần trăm so với dự báo trước đó.

“Với diễn biến của tình hình bệnh dịch hiện tại, chúng tôi hạ dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2021. Triển vọng kinh tế những tháng cuối năm phụ thuộc nhiều vào tốc độ và quy mô tiêm chủng vắc-xin; hiệu quả/phản ứng phụ của các biện pháp phòng chống bệnh dịch; các gói hỗ trợ và thúc đẩy tăng trưởng ở trong nước”, PGS TS Thế Anh dự báo.

Ba kịch bản tăng trưởng năm 2021

Trong bối cảnh tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp kéo dài, VEPR đưa ra 3 kịch bản dự báo tăng trưởng năm 2021 với cơ sở giả định rằng, các đối tác thương mại và đầu tư lớn của Việt Nam sẽ triển khai thành công việc tiêm vắc-xin vào đầu quý IV/2021 và khống chế được tình trạng tái bùng phát của đại dịch. Hoạt động kinh tế được khôi phục và căng thẳng thương mại và bất ổn chính trị được làm dịu hơn. Trong khi đó, tình hình kiểm soát bệnh dịch tại Việt Nam có thể diễn biến theo các chiều hướng khác nhau.

Cụ thể, ở kịch bản cơ sở, dịch bệnh dự kiến được kiểm soát vào cuối quý III/2021, việc tiêm chủng được triên khai nhanh chóng và đạt miễn dịch cộng đồng vào quý II/2022, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định. VEPR dự báo tăng trưởng kinh tế cả năm ở mức 4,5 - 5,1%.

Với kịch bản thuận lợi, trường hợp dịch bệnh được kiểm soát ngay trong tháng 8/2021, việc tiêm vắc-xin được đẩy nhanh và đạt miễn dịch cộng đồng vào quý I/2022, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, tăng trưởng kinh tế cả năm được dự báo ở mức 5,4 - 6,1%.

Kịch bản bất lợi được đưa ra trong trường hợp xấu nhất, dịch bệnh chưa thể được kiểm soát và các hoạt động kinh tế chưa thể trở lại bình thường cho tới quý IV/2021, quá trình tiêm chủng vắc-xin được triển khai chậm do thiếu nguồn cung; dịch vụ, thương mại và thu hút vốn FDI phục hồi chậm. Trong kịch bản này, VEPR dự báo kinh tế Việt Nam năm 2021 chỉ có thể tăng trưởng từ 3,5-4,0%.

Để giảm thiểu các tác động tiêu cực và duy trì tăng trưởng ở mức cao nhất, thực hiện đạt mục tiêu kép như Chính phủ đặt ra, nhóm chuyên gia của VEPR đưa ra một số khuyến nghị giải pháp. Thứ nhất, Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể và nhất quán đối phó với các tình huống bệnh dịch; các bất cập liên quan đến lây nhiễm chéo trong khu cách ly, khai báo y tế, đứt gãy trong lưu thông hàng hóa do các biện pháp cực đoan, thiếu trang thiết bị y tế cần phải được tập trung nguồn lực để giải quyết nhanh chóng.

Thứ hai, Chính phủ và các bộ ngành nên khẩn trương triển khai và giải ngân các gói hỗ trợ đối với người lao động mất việc, đặc biệt là những lao động trong khu vực phi chính thức. Thứ ba, chính sách tài khoa nên tập trung thúc đẩy giải ngân các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng lớn ở cấp quốc gia, làm nền tảng cho giai đoạn phục hồi sau đại dịch. Cùng với đó, chính sách tiền tệ thích ứng nên được thực hiện với tăng trưởng cung tiền được kiểm soát ở mức phù hợp (10%) và các biện pháp kiểm soát rủi ro ở mức vừa phải.

Kiên định mục tiêu kép, song cần ưu tiên linh hoạt giải pháp chính sách

Theo nhận định của TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Giám đốc Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV, tăng trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm 2021 sẽ chịu tác động tiêu cực bởi diễn biến phức tạp của dịch bệnh, trong khi đó chiến lược phòng chống dịch của nước ta còn lúng túng, chiến lược tiêm phòng vắc-xin còn chậm so với nhiều nước.

VEPR đưa ra 3 kịch bản tăng trưởng 2021, dự báo GDP tăng cao nhất 6,1%
TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV

Nếu khu vực doanh nghiệp suy kiệt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe hệ thống tài chính, ngân hàng, bởi nợ xấu dự báo sẽ tăng lên, trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng dự báo sẽ tăng mạnh trong 6 tháng cuối năm.

Trong bối cảnh này, ông Lực nhận định, hoạt động của khu vực doanh nghiệp sẽ tiếp tục vô cùng khó khăn, nhất là khi hàng loạt doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực chịu tác động nặng nền từ dịch Covid-19 trong năm 2020 đã thực sự suy kiệt sau 1 năm vật lộn tồn tại. Tác động dây chuyền khi khu vực doanh nghiệp suy kiệt sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe hệ thống tài chính, ngân hàng, bởi nợ xấu dự báo sẽ tăng lên, trích lập dự phòng rủi ro của các ngân hàng dự báo sẽ tăng mạnh trong 6 tháng cuối năm, cộng với khả năng cao tiếp tục phải giảm lãi suất theo định hướng của NHNN để duy trì dòng vốn cho sản xuất kinh doanh. Do đó, dự báo lợi nhuận hệ thống ngân hàng cuối năm nay sẽ không còn sáng sủa như 6 tháng đầu năm.

Để duy trì tăng trưởng ở kịch bản cao nhất, ông Lực cho rằng, cần kiên định mục tiêu kép và có giải pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Giải pháp chính sách cần ứng xử phù hợp, linh hoạt. “Cần kiên định mục tiêu tăng trưởng kép nhưng tùy từng địa phương, tuy từng thời điểm hoàn cảnh cụ thể thì cần ưu tiên mục tiêu nào hơn để có giải pháp phù hợp, tránh tập trung chống dịch thái quá thì sẽ rất căng như TP. HCM hiện nay", ông Lực khuyến nghị.

Đặc biệt, cần có các giải pháp thiết thực vực dậy sức khỏe của các khu vực doanh nghiệp, bởi đây là động lực tăng trưởng thiết yếu của nền kinh tế. Theo khuyến nghị của ông Lực, cần tiếp tục đẩy nhanh hơn nữa gói hỗ trợ 26 nghìn tỷ đồng, bên cạnh đó, cần có gói hỗ trợ mạnh cho DN nhỏ, gói hỗ trợ lãi suất có trọng tâm trọng điểm cho một số lĩnh vực ngành nghề, địa phương khoảng 50-60 nghìn tỷ đồng, lãi suất cho DN vay khoảng 3-4%, hỗ trợ trong vòng 1 năm.

Ngoài ra, ông Lực cho rằng, cần tìm kiếm các động lực tăng trưởng bổ sung thay thế, tận dụng đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường sớm hồi phục, đẩy nhanh giải ngân đầu tư công nhằm tạo tác động lan tỏa tới các lĩnh vực, đồng thời tăng cường phát triển kinh tế số, thúc đẩy hơn nữa cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh… để tạo nền tảng thuận lợi cho doanh nghiệp có thể sớm phục hồi khi dịch được kiểm soát./.

Hiếu Phương

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư