e-ISSN: 2734-9365

Trang chủ/Sự kiện

Việt Nam đang ở đâu trong cuộc đua số?

10:36 | 25/08/2021 Print
Khi các quốc gia nắm bắt cơ hội để gặt hái thành quả từ chuyển đổi số, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện rõ mong muốn tham gia cuộc đua. Vậy chúng ta đang ở đâu trong sân chơi này?

Chuyển đổi số là điều chắc chắn

Tại buổi công bố báo cáo Điểm lại cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam ấn bản tháng 8/2021, ông Hoàng Anh Tú, Phó vụ trưởng Vụ hợp tác quốc tế, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, Chính phủ đã ban hành Chương trình chuyển đổi số quốc gia với 3 trụ cột là chính phủ số, kinh tế số và xã hội số. Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2025 là kinh tế số đóng góp 20% GDP, là 100.000 doanh nghiệp công nghệ số, Việt Nam sẽ là nơi tốt nhất trong khu vực để các doanh nghiệp số tới kinh doanh và thành công, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia số.

“Chúng ta đang sống trong một thế giới không chắc chắn và tất cả chúng ta đều mong muốn tìm thấy sự chắc chắn trong những điều không chắc chắn. Và tôi cho rằng có 2 điều chắc chắn sẽ xẩy ra. Điều thứ nhất đó là chuyển đổi số, công nghệ số sẽ tiếp tục phát triển và điều thứ hai đó là Việt Nam sẽ vượt qua thách thức đại dịch Covid 19 và sớm trở lại trạng thái bình thường mới”, ông Hoàng Anh Tú khẳng định.

Thực tế, ứng dụng công nghệ số đã thay đổi cách thức mọi người làm việc, giao tiếp, buôn bán, di chuyển và giải trí. Ngày nay, dịch vụ được cung cấp ngay trên máy tính hoặc điện thoại thông minh thông qua các nền tảng kinh doanh. Người nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long có thể sử dụng điện thoại thông minh để cập nhật thông tin giá lúa từ các sàn giao dịch hàng hóa, trong khi các nhà sản xuất xe hơi nước ngoài có thể kiểm soát chất lượng sản xuất từ trụ sở ở nước nhà. Trẻ em tương tác với giáo viên qua màn hình và bệnh nhân nhận đơn thuốc từ bác sỹ qua tin nhắn ngày càng nhiều hơn. Đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi này.

Hơn nữa, Việt Nam là một trong những nền kinh tế internet tăng trưởng nhanh nhất trong khu vực, mặc dù xuất phát điểm còn thấp. Doanh số thương mại điện tử đã và đang tăng trưởng với tốc độ tương đương tốc độ tăng trưởng doanh số thương mại điện tử thế giới và cao hơn so với tăng trưởng GDP. Năm 2020, giá trị thị trường thương mại điện tử của Việt Nam đạt gần 12 tỷ USD, tương đương 2,5% GDP (Hình 1). Uớc tính khoảng 53% dân số đã mua hàng trực tuyến qua các nền tảng mạng xã hội, như Facebook và Zalo, hoặc các nền tảng thương mại điện tử, như Lazada, Shopee và Tiki. Việc sử dụng các nền tảng số dẫn đến doanh số tăng trung bình 4,3%, sau khi đã tính đến các yếu tố như quy mô doanh nghiệp, địa bàn và lĩnh vực.

Hình 1: Tăng trưởng doanh số thương mại điện tử của thế giới và Việt Nam

Việt Nam đang ở đâu trong cuộc đua số?

Nguồn: Tính toán của cán bộ Ngân hàng Thế giới, sử dụng dữ liệu của Ngân hàng Thế giới và Statista 2021

Chúng ta đang ở đâu?

Để đánh giá hiện nay Việt Nam đang ở đâu trong cuộc đua số, Ngân hàng Thế giới sử dụng Khung đánh giá Kết nối, Làm chủ, Đổi mới sáng tạo và Bảo vệ (CHIP), đồng thời so sánh kết quả đạt được của Việt Nam với hai nhóm quốc gia. Nhóm thứ nhất bao gồm tám quốc gia tương đồng. Giống như Việt Nam, đây cũng là những quốc gia thu nhập trung bình và coi chuyển đổi số là trung tâm trong chiến lược phát triển: Colombia, Bờ Biển Ngà, Indonesia, Mexico, Maroc, Nam Phi, Thái Lan và Tunisia. Nhóm thứ hai là bốn quốc gia đi trước, tiến bộ hơn về kinh tế và chuyển đổi số: Hàn Quốc, Malaysia, Philippines và Singapore.

Báo cáo của Ngân hàng Thế giới đưa ra góc nhìn rộng và liên kết về kinh tế số xoay quanh bốn trụ cột: trụ cột thứ nhất nắm bắt sự phát triển của hạ tầng số hiện đại và mạng lưới thanh toán cần thiết để đảm bảo kết nối đáng tin cậy và nhanh giữa các người dùng; trụ cột thứ hai nhấn mạnh yêu cầu cần thiết phải khai thác làm chủ những kết nối này thông qua phát triển kỹ năng phù hợp cho lực lượng lao động và tăng cường năng lực quản lý nhà nước đối với nền kinh tế mới của Chính phủ; trụ cột thứ ba là về những lợi ích mà công nghệ số đem lại; trụ cột thứ tư nhấn mạnh yêu cầu cần có cơ chế bảo vệ chống lại việc vi phạm và lạm dụng an ninh trên không gian mạng. Việt Nam đạt kết quả tốt so với các quốc gia tương đồng và thậm chí so với cả các quốc gia đi trước trong một số nội dung, nhưng thể hiện những điểm yếu quan trọng trong những nội dung khác.

Trụ cột 1. Kết nối trên diện rộng và giá rẻ, nhưng chậm và đi sau về thanh toán điện tử

Việt Nam đã đạt những bước tiến lớn trong việc mở rộng kết nối internet từ mức gần như bằng 0 cuối thập niên 1990 đến bao phủ được 64% dân số như hiện nay. Kết nối băng thông rộng cố định được mở rộng chậm hơn và mới diễn ra trong thời gian gần đây. Trong khi đó, kết nối di động đã bùng nổ và hiện nay số lượng thuê bao di động đã nhiều hơn cả dân số Việt Nam. Việt Nam dường như cũng rất cạnh tranh về chi phí, vì truy cập internet có giá rẻ hơn so với hầu hết các quốc gia so sánh.

Hầu hết mọi hộ gia đình ở Việt Nam, bất kể thu nhập và địa bàn, đều sở hữu ít nhất một chiếc điện thoại di động. Internet đã trở nên tương đối phổ biến với các hộ gia đình, bao gồm cả khoảng một nửa số hộ trong hai nhóm ngũ vị phân nghèo nhất. Tuy nhiên, chất lượng truy cập còn chưa đồng đều vì sóng 3G/4G21 đến các hộ nghèo ở khu vực miền núi còn yếu, do đó hạn chế lợi ích mà các dịch vụ số và tiền di động đem lại. Số lượng các hộ gia đình ở nông thôn sở hữu máy tính còn thấp hơn nhiều so với ở thành thị, và số hộ nghèo được sở hữu máy tính thậm chí còn ít hơn do chi phí cao.

Hơn nữa, hầu hết các giao dịch thanh toán ở Việt Nam hiện đang thực hiện bằng tiền mặt, và phát triển tài chính toàn diện còn chậm. Chỉ có 22% người Việt Nam thực hiện hoặc nhận thanh toán số vào năm 2017,22 và chỉ có 41% người trưởng thành có tài khoản ngân hàng vào năm 2019. Khả năng tiếp cận và phát triển tài chính toàn diện đặc biệt hạn chế ở các vùng nông thôn.

Trụ cột 2. Kỹ năng số của lực lượng lao động ở Việt Nam còn yếu kém

Lực lượng lao động của Việt Nam còn thiếu những kỹ năng cần thiết để hoàn toàn làm chủ kinh tế số. So với các quốc gia so sánh, tỷ lệ nhập học giáo dục sau phổ thông và kỹ năng số của bộ phận dân số tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội ở Việt Nam còn thấp (Hình 2 và 3). Chỉ có 40% doanh nghiệp cho biết có đủ kỹ năng công nghệ thông tin và truyền thông để duy trì và khai thác đầy đủ các hệ thống công nghệ số của họ, và mức độ thiếu hụt kỹ năng được dự báo sẽ lên đến 1 triệu lao động ngành công nghệ thông tin và truyền thông vào năm 2023. Tình trạng thiếu hụt nhân tài còn trầm trọng hơn do chảy máu chất xám khi nhiều người lao động có kỹ năng trong nước đi làm việc ở các thị trường nước ngoài.

Việt Nam đang ở đâu trong cuộc đua số?
Nguồn: Tính toán của cán bộ sử dụng dữ liệu của Chỉ số phát triển thế giới (WDI) 2021

Trụ cột 3. Đổi mới sáng tạo đang trỗi dậy nhưng chưa tinh sâu

Đại dịch COVID-19 năm 2020 và tác động kéo dài đến năm 2021 đã làm thay đổi cuộc chơi đối với khu vực tư nhân. Các doanh nghiệp Việt Nam đã nắm bắt công nghệ thông tin và truyền thông để tạo điều kiện thuận lợi cho làm việc từ xa và tiếp cận khách hàng trong thời gian giãn cách xã hội và hạn chế đi lại. Những khảo sát qua điện thoại gần đây của Ngân hàng Thế giới cho thấy tỷ lệ sử dụng các nền tảng số, các trang thương mại điện tử, mạng xã hội trực tuyến và các ứng dụng chuyên biệt tăng mạnh nhằm ứng phó với dịch COVID-19, từ 48% doanh nghiệp vào tháng 6/2020 lên 73% vào tháng 1/2021. Trong cùng kỳ, tỷ lệ doanh nghiệp đầu tư cho các giải pháp số - như lắp đặt thiết bị và phần mềm cho hoạt động doanh nghiệp - tăng hơn bốn lần từ 5% lên 21%.

Mặc dù vậy, mức độ tinh thông của người dùng còn tương đối hạn chế. Các nền tảng số chủ yếu được sử dụng để tinh gọn những chức năng nghiệp vụ đơn giản như quản trị kinh doanh, bán hàng và phương thức thanh toán. Chỉ những doanh nghiệp lớn với đủ nguồn lực tài chính và con người để thể hiện khả năng sử dụng các công cụ số trong lập kế hoạch sản xuất, quản lý chuỗi cung ứng và hoạt động chế tạo.

Khảo sát doanh nghiệp về ứng dụng công nghệ của Ngân hàng Thế giới năm 2020 cho thấy ứng dụng công nghệ mới vẫn chỉ ở giai đoạn khởi đầu ở Việt Nam. Chỉ có 6% các doanh nghiệp ở Việt Nam sử dụng điện toán đám mây cho các nhiệm vụ của doanh nghiệp và chỉ dưới 2% các doanh nghiệp sử dụng dữ liệu lớn hoặc trí tuệ nhân tạo phục vụ hoạt động marketing. Bao quát hơn, chỉ có khoảng 6% các doanh nghiệp chế biến, chế tạo sử dụng các kỹ thuật sản xuất bồi đắp (AM) hoặc các kỹ thuật tiên tiến khác, và chưa đến 2% sử dụng robot.

Trụ cột 4. Bảo vệ tương đối an toàn, nhưng ít quyền riêng tư và bảo vệ khỏi tập trung thị trường và kiểm duyệt

Theo Chỉ số An ninh mạng toàn cầu, Việt Nam có mức độ bảo vệ khá tốt, với thứ hạng 25 trên 194 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ tư trong số 11 quốc gia thuộc Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và đứng thứ bảy trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Trong báo cáo của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam cũng xếp thứ bảy trong số 13 quốc gia nghiên cứu.

Tuy vậy, Chính phủ có vẻ vẫn thiếu khả năng bảo vệ doanh nghiệp và người tiêu dùng khỏi tập trung thị trường và khả năng bị lạm dụng bởi các thành viên chi phối thị trường. Hơn nữa, Việt Nam vẫn đi sau về bảo vệ quyền riêng tư; xếp cuối cùng trong số các quốc gia so sánh tương đồng hoặc đi trước về mức độ can thiệp của Chính phủ trên internet và mạng xã hội.

Cần nhanh chóng khắc phục những thất bại thị trường

Việt Nam đang ở đâu trong cuộc đua số?
WB cho rằng, Việt Nam cần phải làm nhiều hơn nữa nếu muốn trở thành cường quốc kỹ thuật số

Ngân hàng Thế giới cho rằng, Việt Nam sẽ cần phải làm nhiều hơn nữa nếu muốn trở thành cường quốc kỹ thuật số như mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội được Đại hội Đảng XIII thông qua vào tháng 2/2021. Chính phủ cần tập trung giải quyết 3 thất bại của thị trường bằng những giải pháp thông minh.

Đầu tiên là đảm bảo khả năng cung cấp lực lượng lao động có kỹ năng số. Đây là giải pháp trọng tâm vì có tới 1/3 số việc làm hiện có ở Việt Nam có nguy cơ bị mất trong khoảng 5 năm tới do số hóa. Mặc dù chuyển đổi kỹ thuật số sẽ tạo ra nhiều việc làm mới, những công việc này sẽ đòi hỏi nhiều kỹ năng mới. Có thể kỳ vọng thị trường lao động sẽ điều chỉnh dần dần do nhu cầu cao về lao động có kỹ năng sẽ làm tăng mức lương tương đối. Điều này sẽ khuyến khích người lao động và doanh nghiệp tăng đầu tư vào giáo dục và đào tạo.

Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế đã chứng minh rằng, người lao động có thể không có thông tin hoặc nguồn lực tài chính để đầu tư vào con đường học vấn dài hơn. Với tốc độ hiện tại, Việt Nam có thể mất 25 năm để có số lượng sinh viên đăng ký vào các trường đại học như tại Thái Lan hiện nay. Ở các quốc gia thành công, chính phủ đã giải quyết thất bại này của thị trường bằng cách (i) loại bỏ các trở ngại pháp lý đối với dịch chuyển lao động; (ii) cung cấp thông tin cho người lao động về các xu hướng và nhu cầu của thị trường lao động để họ biết khi ra quyết định; (iii) nâng cao chất lượng các chương trình giáo dục kỹ thuật và dạy nghề; và (iv) hỗ trợ các doanh nghiệp và người lao động về tài chính khi học những kỹ năng mới.

Giải pháp thứ hai là phải đảm bảo khu vực tư nhân trong nước luôn năng động, vì chu kỳ đổi mới trong nền kinh tế kỹ thuật số rất ngắn. Để giữ cho khu vực tư nhân năng động và có động lực áp dụng công nghệ mới, Chính phủ cần đảm bảo duy trì sự cạnh tranh khi một số thị trường gần như bị thống trị một cách tự nhiên bởi những doanh nghiệp hàng đầu về kỹ thuật số do nắm giữ bí quyết, có tác động ngoại lai mạng lưới và lợi thế về quy mô. Có thể thấy sự tập trung như vậy trong thị trường băng thông rộng cố định và tăng mạnh trong truyền thông xã hội (với sự thống trị của Facebook) và các phân ngành kỹ thuật số khác, như thương mại điện tử, fintech, tài chính kỹ thuật số và quản lý dữ liệu. Cần có chính sách để giảm bớt các rào cản gia nhập và tăng cường các quy định pháp lý để tránh việc lạm dụng. Đồng thời, ở khía cạnh khác, các cơ quan chức năng cần hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp trong nước và các nhà đầu tư nhỏ và có tài năng đang gặp khó khăn về tài chính bằng việc cung cấp cho họ nhiều phương án tài trợ như đã được thực hiện thành công ở một số quốc gia khác, trong đó có Singapore.

Giải pháp thứ ba là Chính phủ cần tạo điều kiện cho việc tiếp cận dữ liệu và thông tin. Chính phủ có thể nâng cao khả năng tiếp cận thông tin bằng cách liên thông cơ sở dữ liệu của các cấp, các ngành và thông qua sáng kiến ​​dữ liệu mở - trong đó có việc chia sẻ dữ liệu công trực tuyến theo cách thân thiện với người dùng. Chính phủ cũng có thể khuyến khích khu vực tư nhân thu thập và chia sẻ dữ liệu vì các công cụ và nền tảng kỹ thuật số mới đã làm giảm sự độc quyền của Nhà nước. Tất cả những hoạt động này cũng nên tính đến quyền riêng tư và bảo mật của dữ liệu và người dùng dữ liệu.

“Việt Nam cần nhanh chóng khắc phục 3 thất bại thị trường này để đưa đất nước tiến lên trên con đường hướng tới những mục tiêu kinh tế số đầy tham vọng. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hết sức cẩn trọng để Chính phủ không tạo ra những thất bại mới cũng như những can thiệp có mục đích tốt nhưng sai lầm của Chính phủ có thể làm trầm trọng hơn, thay vì giải quyết những biến dạng của thị trường và các chính sách khuyến khích ban đầu. Ví dụ như việc sử dụng nguồn lực của Nhà nước cho các chương trình đào tạo không phù hợp với nhu cầu của thị trường", ông Jacques Morisset, Chuyên gia kinh tế trưởng Ngân hàng thế giới tại Việt Nam, lưu ý.

Cũng theo ông Jacques Morisset, Chính phủ cần bảo vệ doanh nghiệp không bị cạnh tranh quá mức, hạn chế sự phát triển trong tương lai nói chung của các doanh nghiệp. Về nguyên tắc, các giải pháp của Chính phủ cần được xây dựng và thực hiện trong mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với khu vực tư nhân và đảm bảo tính minh bạch tối đa nhằm tránh bị các thành phần nhà nước hoặc tư nhân lợi dụng./.

Trang Trần

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư