Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ đại dịch Covid-19

09:30 | 31/08/2021 Print
Khởi phát từ đầu năm 2020, đến nay, đại dịch Covid-19 trên thế giới vẫn tiếp tục diễn biến khó lường, nhất là từ cuối tháng 4/2021 đến nay, dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 với số lượng ca mắc mới khá cao, nhất là tại các khu công nghiệp lớn đã ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển kinh tế địa phương nói riêng và kinh tế cả nước nói chung. Vì vậy, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ đại dịch Covid-19 nhằm thực hiện “mục tiêu kép”, Chính phủ cần có những hỗ trợ “đủ liều”, đủ dài với các nhóm đối tượng phù hợp.

Từ đầu năm 2020 đến nay, đại dịch Covid-19 đã trở thành chủ đề “nóng”, được bàn luận nhiều nhất ở tất cả mọi quốc gia trên thế giới. Covid-19 - bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của virus corona được phát hiện lần đầu tiên tại TP. Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc vào tháng 12/2019. Theo số liệu từ Trang tin Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 của Bộ Y tế, tính đến ngày 09/6/2021 (giờ Việt Nam), toàn thế giới ghi nhận hơn 174.752.397 ca nhiễm Covid-19, trong đó có 12.823.635 ca đang điều trị, 158.165.813 ca đã hồi phục và 3.762.949 ca tử vong.

Ở Việt Nam, ngay từ khi phát hiện ca bệnh đầu tiên (công bố vào ngày 23/01/2020), với sự chỉ đạo tích cực của Đảng và Chính phủ, bằng các biện pháp cách ly, truy vết, theo dõi và hạn chế người từ vùng dịch, Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng trong phòng chống dịch. Tính đến ngày 09/6/2021, Việt Nam có 9.222 ca mắc, 5.616 ca đang điều trị, 3.547 ca khỏi, 55 ca tử vong.

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG THỜI KỲ ĐẠI DỊCH COVID-19

Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng toàn diện, sâu rộng đến tất cả các quốc gia trên thế giới và đang diễn biến rất phức tạp, khó lường, đẩy thế giới và nhiều nước rơi vào khủng hoảng kép về y tế và kinh tế. Về kinh tế, hầu hết các quốc gia rơi vào suy thoái nghiêm trọng, kinh tế và thương mại toàn cầu suy giảm mạnh, trong đó có Việt Nam.

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ đại dịch Covid-19
Ảnh minh họa (tác phẩm Khử trùng của nghệ sĩ nhiếp ảnh Lò Văn Hợp)

Năm 2020 được xem là một năm của những khó khăn và thách thức lớn đối với kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Kinh tế thế giới được dự báo suy thoái nghiêm trọng nhất trong lịch sử, tăng trưởng của các nền kinh tế lớn đều giảm sâu do ảnh hưởng tiêu cực của dịch Covid-19. Việt Nam là một trong số ít các nước kiểm soát tốt dịch Covid-19, nhưng vẫn bị ảnh hưởng nghiêm trọng đối với nền kinh tế. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2020, kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) là 2,91%, là mức thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020 (Hình), nhưng trước những tác động tiêu cực của dịch Covid-19 thì đó là một thành công của nước ta với tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm nước cao nhất thế giới. Cùng với Trung Quốc và Myanmar, Việt Nam là một trong ba quốc gia ở châu Á có mức tăng trưởng dương trong năm 2020; đồng thời quy mô nền kinh tế nước ta đạt hơn 343 tỷ USD, vượt Singapore (337,5 tỷ USD) và Malaisia (336,3 tỷ USD), đưa Việt Nam trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia 1.088,8 tỷ USD; Thái Lan 509,2 tỷ USD và Philippines 367,4 tỷ USD) (Tổng cục Thống kê, 2021).

Hình: Tốc độ tăng GDP giai đoạn 2010-2020

Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ đại dịch Covid-19
Nguồn: Tổng cục Thống kê

Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, sản lượng một số cây lâu năm, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu và sản lượng tôm năm 2020 tăng khá đã đưa tốc độ tăng của khu vực này đạt 2,68%, cao hơn năm 2019 (2,01%). Trong tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực công nghiệp và xây dựng đạt tốc độ tăng cao nhất với 3,98%, đóng góp 1,62 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Đối với khu vực dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 1,2% trong 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước, nhưng sau đó đã phục hồi rõ rệt với tốc độ tăng 6 tháng cuối năm đạt 6,2%, đưa lĩnh vực thương mại trong nước cả năm tăng 2,6%. Một điểm sáng trong bức tranh kinh tế năm 2020 không thể không nhắc đến đó là xuất khẩu vượt khó trong tình hình dịch bệnh, duy trì tăng trưởng dương; xuất siêu hàng hóa đạt mức cao kỷ lục (19,1 tỷ USD) và cán cân thương mại duy trì xuất siêu 5 năm liên tiếp (kim ngạch xuất siêu hàng hóa các năm trong giai đoạn 2016-2020 lần lượt là: 1,6 tỷ USD; 1,9 tỷ USD; 6,5 tỷ USD; 10,9 tỷ USD; 19,1 tỷ USD). Cùng với đó, theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), mặc dù bị tác động của dịch Covid-19, song thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) năm 2020 đã đạt 28,5 tỷ USD cùng hàng trăm nhà đầu tư có kế hoạch mở rộng đầu tư/đầu tư mới hoặc đang nghiên cứu, tìm hiểu đầu tư tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ, Việt Nam vẫn là điểm đến đầu tư an toàn của các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, Báo cáo tác động của dịch Covid-19 đến tình hình lao động, việc làm quý IV và năm 2020 của Tổng cục Thống kê cũng cho thấy, năm 2020, cả nước có 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19, bao gồm: người bị mất việc làm, phải nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập… Trong đó, 69,2% người bị giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên và khoảng 14,0% buộc phải tạm nghỉ hoặc tạm ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Theo kết quả điều tra đột xuất của Tổng cục Thống kê về tác động của dịch Covid-19 tới DN (lần 1) cho thấy, đến ngày 20/4/2020, với 126.565 DN tham gia trả lời, có tới 85,7% số DN bị tác động bởi dịch Covid-19. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ chịu nhiều tác động nhất từ dịch Covid-19 với tỷ lệ DN bị tác động lần lượt là 86,1% và 85,9%; trong khi khu vực nông, lâm, thủy sản chịu ảnh hưởng ít hơn với 78,7%. Một số ngành kinh tế có tỷ lệ DN chịu tác động tiêu cực của dịch Covid-19 cao, điển hình như các ngành: hàng không 100%, dịch vụ lưu trú 97,1%, dịch vụ ăn uống 95,5%, hoạt động của các đại lý du lịch 95,7%, giáo dục và đào tạo 93,9%, các ngành dệt may, sản xuất da, các sản phẩm từ da, sản xuất các sản phẩm điện tử, sản xuất ô tô đều có tỷ lệ trên 90%.

Sang đến năm 2021, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý I/2021 của Tổng cục Thống kê cho thấy, GDP ước tính tăng 4,48% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng 3,68% của quý I/2020. Quý I/2021 cũng ghi nhận sự phục hồi mạnh mẽ của hoạt động xuất - nhập khẩu khi tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu hàng hóa ước đạt 152,65 tỷ USD, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 77,34 tỷ USD, tăng 22%; nhập khẩu đạt 75,31 tỷ USD, tăng 26,3%. Số DN đăng ký thành lập mới trong 3 tháng đầu năm 2021 giảm 1,4% so với cùng kỳ năm trước, nhưng có vốn đăng ký tăng 27,5%, nguyên nhân do gia tăng số lượng DN có vốn đăng ký trên 100 tỷ đồng và giảm số lượng DN có vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng. Tính chung quý I/2021, cả nước có 29.300 DN đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 447,8 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký là 245,6 nghìn lao động, giảm 1,4% về số DN, tăng 27,5% về vốn đăng ký và tăng 0,8% về số lao động so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, từ khi đợt dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 ở nước ta (từ cuối tháng 4/2021 đến nay), dựa trên những thông tin cập nhật diễn biến mới của dịch Covid-19, nhiều tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước dự báo tình hình sản xuất, kinh doanh năm 2021 sẽ còn gặp nhiều khó khăn khi cuộc chiến chống dịch trên thế giới và tại Việt Nam chưa thể kết thúc sớm. Nhiều ngành kinh tế quan trọng sẽ tiếp tục trải qua một năm đầy khó khăn và khó đoán định. Đặc biệt do có ca nhiễm Covid-19, Bắc Ninh và Bắc Giang đã phải tạm thời đóng cửa các khu công nghiệp, đồng thời thực hiện cách ly xã hội một số địa bàn để thực hiện phòng, chống dịch. Điều này đã gây thiệt hại nặng nề cho kinh tế địa phương bởi đóng góp của các khu công nghiệp vào GRDP của địa phương này là rất lớn.

ĐÁNH GIÁ NHỮNG GIẢI PHÁP HỖ TRỢ TỪ PHÍA CHÍNH PHỦ

Sau một năm chịu tác động của đại dịch Covid-19, tình hình của DN và người lao động hiện rất khác so với năm 2020. Rất nhiều DN đã không thể trụ được, phải cắt giảm lao động, thậm chí đóng cửa hoặc chuyển sang ngành nghề khác.

Ngay từ những diễn biến đầu tiên của đại dịch Covid-19, Chính phủ đã kịp thời chỉ đạo đưa ra các gói hỗ trợ, chính sách tiền tệ, tài khóa, an sinh xã hội nhằm hỗ trợ DN và người dân vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của cú sốc Covid-19. Sự điều hành kịp thời của Chính phủ, thể hiện ở các gói hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội hướng đến sự phát triển bền vững qua Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19. Tiếp đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 84/NQ-CP, ngày 29/5/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và bảo đảm trật tự an toàn xã hội trong bối cảnh đại dịch Covid-19.

Đặc biệt là trong “làn sóng” dịch Covid-19 lần thứ tư, Chính phủ đã chỉ đạo đồng bộ, xuyên suốt và cụ thể các giải pháp vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế. Chủ trương “không ngăn sông cấm chợ”, “khoanh vùng hẹp” để bảo đảm sản xuất, duy trì phát triển kinh tế được thực hiện đồng bộ ở các địa phương, giúp hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của dịch đối với hoạt động của DN. Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 52/2021/NĐ-CP, ngày 19/4/2021 về gia hạn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập DN, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2021 – đây là chính sách hỗ trợ rất tốt cho DN trong thời điểm khó khăn này.

Cùng với những chính sách hỗ trợ nói trên, bản thân các DN cũng rất chủ động ứng phó với dịch Covid-19, nhưng tiềm lực và sức chống chịu của DN cũng có hạn. Thực tế, sau một năm chịu tác động của đại dịch Covid-19, tình hình của DN và người lao động hiện rất khác so với năm 2020. Rất nhiều DN đã không thể trụ được, phải cắt giảm lao động, thậm chí đóng cửa hoặc chuyển sang ngành nghề khác. Về phía người lao động cũng không thể ngồi nhà nhận tiền hỗ trợ và chờ quay trở lại công việc vì diễn biến của dịch Covid-19 ngày càng phức tạp và kéo dài, buộc họ phải tìm kiếm việc làm mới tạm thời.

Hơn nữa, các gói hỗ trợ từ trước đến nay của Chính phủ là cần thiết, nhưng theo tác giả, mới chỉ mang tính ngắn hạn và có những mặt chưa hiệu quả. Ví dụ, về gói hỗ trợ an sinh xã hội theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020, đối tượng được hỗ trợ đa phần là các nhóm lao động thuộc khối bảo trợ xã hội, người có công, hộ nghèo. Trong khi đó, nhóm lao động chịu tác động trực tiếp và mạnh nhất của đại dịch Covid-19 lại là nhóm lao động tự do, nhóm yếu thế thuộc khối phi chính thức lại không tiếp cận được với khoản hỗ trợ này. Còn gói hỗ trợ DN vay với lãi suất 0% theo Nghị quyết số 42/NQ-CP của Chính phủ để trả lương cho người lao động, thì thủ tục vay rất phức tạp với các điều kiện khá ngặt nghèo. Vì vậy, sau 6 tháng triển khai, có tới 80% DN không nhận được gói hỗ trợ lần 1 của Chính phủ, do không đáp ứng được các điều kiện đặt ra (Hoàng Hà, 2020).

Về chính sách tiền tệ, năm 2020, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần liên tiếp điều chỉnh giảm các lãi suất điều hành, đồng thời ban hành Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, ngày 13/3/2020 quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng do đại dịch Covid-19. Như vậy, bên cạnh việc duy trì được tăng trưởng tín dụng ở mức khá cao so với các năm trước, các điều chỉnh chính sách tiền tệ ở trên trong năm 2020 còn giúp hạ các mức lãi suất thị trường, khoảng 1,3 điểm phần trăm đối với lãi suất huy động và khoảng 0,2 điểm phần trăm đối với lãi suất cho vay.

Tuy nhiên, số lượng các DN tiếp cận được với các gói hỗ trợ còn chưa như kỳ vọng và chính sách còn có nhiều bất cập trong việc thực thi bao gồm: thủ tục phức tạp, khó chứng minh và đáp ứng các điều kiện. Nhìn chung, lãi suất cho vay hiện đang giảm không tương xứng với sự giảm sút của lãi suất huy động.

MỘT SỐ ĐỀ XUẤT

Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đại dịch Covid-19, theo tác giả, cần thực hiện có hiệu quả một số giải pháp sau:

Các chính sách hỗ trợ phải đến “đúng” và “trúng” là điều vô cùng cần thiết trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp trên toàn cầu và tại Việt Nam.

Một là, tập trung hỗ trợ DN nhằm ngăn chặn và giảm tình trạng mất thanh khoản, phá sản, giải thể, tạo điều kiện để khu vực DN phục hồi nhanh khi dịch Covid-19 suy giảm và chấm dứt. Chính phủ cần có các hình thức hỗ trợ phù hợp với các DN ở từng ngành, lĩnh vực và từng giai đoạn, cần ưu tiên các DN có quy mô vừa và nhỏ bởi khả năng chống chịu kém.

Chính phủ cũng cần kéo dài thời gian các giải pháp hỗ trợ để DN có đủ thời gian phục hồi; các chính sách hỗ trợ cần rõ ràng, minh bạch về thủ tục cũng như đối tượng được hưởng, giảm thiểu những phiền hà về quy trình tiếp cận các gói hỗ trợ, đặc biệt là thủ tục chứng minh về tài chính, kiên quyết phòng tránh các rủi ro, thất thoát, lạm dụng, trục lợi cá nhân hoặc lợi ích nhóm…

Bên cạnh đó, các chính sách hỗ trợ phải đến “đúng” và “trúng” là điều vô cùng cần thiết trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp trên toàn cầu và tại Việt Nam.

Hiện nay, để hỗ trợ tích cực và kịp thời DN trong tình hình hiện nay, Chính phủ đang xem xét ban hành tập hợp giải pháp của các ngành, các lĩnh vực khác nhau để hướng tới một mục tiêu chung là hỗ trợ nền kinh tế vượt qua khó khăn của đại dịch Covid-19. Dự kiến đối tượng hỗ trợ lần này được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất dành cho DN và người lao động gặp khó khăn do dịch Covid-19 với tổng kinh phí đề xuất khoảng 18.600 tỷ đồng. Trong đó, ưu tiên DN nhỏ và siêu nhỏ (dưới 10 lao động), hợp tác xã và hộ kinh, người lao động tại khu vực nông thôn. Dự kiến, nguồn lực này hỗ trợ cho khoảng 10.000 cơ sở sản xuất, kinh doanh với mức vay bình quân một tỷ đồng/cơ sở và khoảng 100.000 lao động với mức vay bình quân khoảng 50 triệu đồng/lao động (Ngân Anh, 2020).

Hai là, Chính phủ cần tiếp tục áp dụng các biện pháp nhất quán và đồng bộ để vừa duy trì cả cung và cầu trên thị trường, ổn định thị trường tiêu dùng trong nước, thị trường tài chính, tiền tệ; thực hiện khoanh nợ, giãn nợ và giảm lãi suất, một số loại thuế cho DN bị ảnh hưởng lớn bởi dịch…

Ba là, các cơ quan chức năng cũng cần hướng dẫn và hỗ trợ các DN khai thác các cơ hội mới từ việc triển khai các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có hiệu lực, như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại Tự do EU-Việt Nam (EVFTA).

Bốn là, coi trọng công tác thông tin cộng đồng và tâm lý đám đông; kiểm soát tình trạng đầu cơ, trục lợi và tham nhũng trong chống dịch; đề cao tinh thần cộng đồng và trách nhiệm xã hội của DN; hài hòa lợi ích trong nhập khẩu, phân phối hàng thiếu hụt; coi trọng thị trường trong nước và phát triển các chuỗi cung ứng mới; phát triển thương mại điện tử, kinh tế nền tảng và phi tiếp xúc truyền thống; phát triển hạ tầng logistics nông nghiệp và xuất khẩu dịch vụ; chủ động đa dạng hóa kịch bản tăng trưởng và kiểm soát rủi ro vĩ mô và vi mô…

Đồng thời, cần củng cố nhận thức mới về bối cảnh bình thường mới (mục tiêu kép) và về đối tượng của các gói hỗ trợ (cả DN và người dân, cả DN nhỏ và vừa, DN tư nhân và DN nhà nước, cũng như cần tác động vào cả cung và cầu…) và hàng rào kỹ thuật trong bối cảnh các nước khi mở cửa giao thương hậu Covid-19 đều đề cao yêu cầu mới là chỉ ưu tiên quốc gia không có dịch bệnh…

Năm là, Việt Nam cần nhiều hơn các đột phá nâng cao năng lực tự chủ của nền kinh tế; đổi mới mô hình tăng trưởng, gia tăng các động lực tăng trưởng mới; đẩy nhanh quá trình cải cách thể chế và cải thiện môi trường; phát triển của khu vực tư nhân; phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động; chú trọng phát triển công nghiệp chế biến chế tạo theo chiều sâu và tận dụng tối đa các lợi ích, cơ hội từ hội nhập quốc tế và xu hướng Cách mạng công nghiệp 4.0.

Tài liệu tham khảo

1. Tổng cục Thống kê (2010-2020). Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội các năm, từ năm 2010 đến năm 2020

2. Tổng cục Thống kê (2021). Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV năm 2021

3. Tổng cục Thống kê (2021). Báo cáo tác động của dịch Covid-19 đến tình hình lao động, việc làm quý IV và năm 2020, ngày 06/01/2021

4. Tổng cục Thống kê (202). Điều tra đột xuất đánh giá tác động của dịch Covid-19 tới doanh nghiệp lần 1

5. Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020). Tình hình thu hút đầu tư nước ngoài năm 2020

6. Trang tin Dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp Covid-19 - Bộ Y tế (2021). Diễn biến dịch, truy cập từ https://ncov.moh.gov.vn/

7. Tổng cục Thống kê (2021). Kinh tế việt nam 2020 một năm tăng trưởng đầy bản lĩnh, truy cập từ https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu-thong-ke/2021/01/kinh-te-viet-nam-2020-mot-nam-tang-truong-day-ban-linh/

8. Ngân Anh (2020). Đề xuất hỗ trợ lần 2 gần 18.600 tỷ đồng cho các đối tượng bị ảnh hưởng dịch Covid-19, truy cập từ https://nhandan.vn/tin-tuc-xa-hoi/de-xuat-ho-tro-lan-2-gan-18-600-ty-dong-cho-cac-doi-tuong-bi-anh-huong-dich-covid-19--613826/

9. Hoàng Hà (2020). Gói hỗ trợ lần 2 dành cho DN và người lao động, làm sao để đúng và trúng?, truy cập từ https://vovgiaothong.vn/goi-ho-tro-lan-2-danh-cho-doanh-nghiep-va-nguoi-lao-dong-lam-sao-de-dung-va-trung

10. Nhóm phóng viên kinh tế (2021). DN tìm cách vượt khó trước “làn sóng” dịch Covid-19 thứ tư, truy cập từ https://nhandan.vn/tin-tuc-kinh-te/doanh-nghiep-tim-cach-vuot-kho-truoc-lan-song-dich-covid-19-thu-tu-647335/

TS. Nguyễn Huy Oanh

Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Trưng Vương

(Bài được đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 17, tháng 6/2021)

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư