Hàng loạt lao động mất việc, giảm thu nhập do dịch Covid-19

19:09 | 09/09/2021 Print
Theo kết quả khảo sát nhanh về tình hình việc làm, thu nhập của người lao động vừa được Ban nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV thuộc Hội đồng tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ) công bố, nhiều lao động bị mất việc và giảm mạnh thu nhập do tác động bởi dịch Covid-19 trong khi chưa hoặc nhận được nguồn hỗ trợ không đủ trang trải cuộc sống.

Lao động mất việc chiếm tỷ lệ lớn

Cụ thể, theo báo cáo của Ban IV, trong tổng số 69.132 người lao động trả lời khảo sát online, tỷ lệ số người trả lời hiện đang mất việc chiếm 62% (tương đương với 42.754 người trả lời), người lao động đang có việc là 38% (tương đương với 26.378 người trả lời). Nhóm người lao động mất việc từ 31 đến 45 chiếm nhiều nhất với khoảng 69,4%, nhóm người mất việc từ 16 đến 30 tuổi chiếm 16,3%, nhóm mất việc từ 46 đến 60 tuổi chiếm khoảng 13,2% và nhóm người mất việc trên 60 tuổi chiếm khoảng 1,2%.

So sánh người lao động trong khảo sát về tình trạng việc làm theo phân ngành kinh tế lớn thì tỷ lệ mất việc cao nhất trong ngành xây dựng, chiếm 66,8%, tiếp đó là ngành dịch vụ là 63%, ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 59,4% và thấp nhất là ngành công nghiệp, 48,4%.

Hàng loạt lao động mất việc, giảm thu nhập do dịch Covid-19
Cơ cấu lao động theo tình trạng việc làm phân theo ngành kinh tế lớn (%)

Trong đó, phân theo tiểu ngành trong khu vực kinh tế dịch vụ thì tỷ lệ mất việc cao nhất 87% thuộc nhóm dịch vụ lưu trú và ăn uống, du lịch; dịch vụ giúp việc, bảo vệ. Ngành du lịch bị ảnh hưởng nặng nề từ đợt bùng phát dịch lần đầu vào đầu năm 2020, và đến đợt dịch bùng phát từ tháng 5/2021 cùng với các chính sách giãn cách tại các thành phố lớn thì các hoạt động ăn uống bị đóng cửa nên đây là nhóm có tỷ lệ mất việc lớn nhất.

Tỷ lệ lao động mất việc ở trong lĩnh vực y tế và hoạt động trợ giúp xã hội là 33,1%, phần lớn lao động làm trong lĩnh vực này là lao động làm trong các phòng khám tư nhân. Tỷ lệ lao động mất việc trong lĩnh vực Giáo dục và đào tạo là 52,2%, phần lớn là lao động làm trong các cơ sở giáo dục mầm non tư nhân hoặc các trung tâm dạy nghề hoặc kỹ năng.

Hàng loạt lao động mất việc, giảm thu nhập do dịch Covid-19

Cơ cấu lao động theo tình trạng việc làm phân theo tiểu ngành dịch vụ (%)

Hàng loạt lao động mất việc, giảm thu nhập do dịch Covid-19

Cơ cấu lao động theo tình trạng việc làmphân theo tiểu ngành công nghiệp (%)

Trong tổng số 42.754 người tham gia khảo sát bị mất việc, 50% người bị mất việc từ 1-3 tháng. Số người mất việc dưới 1 tháng là 19%, số người mất việc trên 6 tháng là 15%.

Hàng loạt lao động mất việc, giảm thu nhập do dịch Covid-19
Thời gian mất việc của người tham gia khảo sát

Nguồn tiền tích lũy không đủ trang trải trong thời gian mất việc

Đáng chú ý, trả lời câu hỏi khảo sát: “Nếu bị mất việc thì nguồn tiết kiệm/tích lũy đảm bảo được cuộc sống tối thiểu của bạn và gia đình bạn bao nhiêu tháng nữa?”, trong tổng số 42.754 câu trả lời, gần 50% số lượng người lao động đã mất việc phản hồi có nguồn tiền tích lũy chỉ đủ để đảm bảo cho cuộc sống dưới 1 tháng, hơn 37% người lao động đã mất việc chỉ đủ đảm bảo cho cuộc sống dưới 3 tháng, 8,6% người lao động đã mất việc đủ đảm bảo cho cuộc sống dưới 6 tháng và chỉ 4,4% số lượng người lao động đã mất việc có nguồn tiền tích lũy đủ đảm bảo cho cuộc sống trên 6 tháng.

Hàng loạt lao động mất việc, giảm thu nhập do dịch Covid-19
Số tháng mà nguồn tiền tích lũy của nhóm người lao động đã mất việc có thể đảm bảo cuộc sống (%)

Về nguồn hỗ trợ từ bên ngoài đối với nhóm lao động đã mất việc, trong tổng số 42.754 câu trả lời, 45% người mất việc phải dựa vào sự trợ giúp tài chính của người thân và gia đình. Tỷ lệ người mất việc nhận được sự trợ giúp từ làng xóm hoặc tổ chức từ thiện là 12%. Tỷ lệ số lao động mất việc nhận được sự trợ giúp tài chính của công ty đạt tỷ lệ thấp chỉ hơn 5%. Đáng chú ý, con số về lao động mất việc do ảnh hưởng về dịch tiếp cận được “Từ gói hỗ trợ của nhà nước” là nhỏ nhất và rất nhỏ chỉ đạt 2%. Con số 3,5% trong hình 14 là tính gộp cả những người nhận được Bảo hiểm Thất nghiệp khi mất việc. Tỷ lệ không nhận được sự trợ giúp nào chiếm 39,6% số người tham gia khảo sát bị mất việc làm.

Hàng loạt lao động mất việc, giảm thu nhập do dịch Covid-19
Tỷ lệ nguồn hỗ trợ mà người lao động mất việc nhận được

Phát sinh hàng loạt chi phí trong thời gian giãn cách

Về các chi phí phát sinh do tác động của đợt bùng phát dịch Covid-19 từ tháng 5/2021 mà người lao động trả lời khảo sát phải chi trả trong đợt dịch lần này, hầu hết đều phản hồi gia tăng đáng kể. Các khoản gia tăng gồm chi phí tiền điện, tiền internet, tiền kế nối 3G, 4G tăng lên là khoản phát sinh lớn nhất. Bên cạnh đó, chi phí nuôi dưỡng người thân do cách ly giữa các vùng là chi phí phát sinh cao thứ hai với hơn 28% người tham gia khảo sát phải chi trả. Chi phí này gồm cả chi phí cho người thân ở các thành phố khác do mất việc làm vì Covid-19.

Đáng chú ý, trong bối cảnh dịch kéo dài, người lao động có khi phải tự trả chi phí xét nghiệm Covid-19 để các xác nhận khi di chuyển giữa các tỉnh/thành phố nên đây là khoản chi phí phát sinh cao thứ 3 với 22,9% người tham gia khảo sát cho biết phải chi trả. Chi phí trả cho cá nhân người lao động hoặc cho người thân của họ trong khu vực cách ly chiếm 13,3% số người lao động trả lời. Chi phí ngày gồm chi phí tự trả khi người bị cách ly lựa chọn cơ sở cách ly có trả tiền hoặc chi phí gửi đồ ăn vào các khu vực cách ly của nhà nước.

Ngoài ra, có tới gần 15% số người trả lời khảo sát cho biết, chi phí phát sinh khác gồm chi phí lương thực, thực phẩm, điện, nước, tiền thuê nhà, tiền trả lãi vay ngân hàng. Người lao động đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam cũng như những người lao động đang ở trong các thành phố đang thực hiện giãn cách như Hà Nội, Đà Nẵng, phản ánh khoản chi dành cho lương thực, thực phẩm, dù duy trì mức sinh hoạt tối thiểu nhưng họ phải trả cho giá lương thực, thực phẩm “tăng phi mã”.

Về khả năng tìm kiếm việc làm trong thời gian tới của lao động đã mất việc, 48,2% không thể kiếm được việc để đảm bảo cuộc sống trong thời gian tới, 25% số người mất việc cho biết sẽ tìm kiếm cơ hội làm việc ở công ty khác trong thời gian tới, gần 21% số người mất việc muốn thử sức trong nền tảng online. Khoảng 10% số lao động mất việc sẽ thực hiện việc tham gia vào “chạy xe công nghệ” để đảm bảo cuộc sống. Chỉ có 0,6% số lao động mất việc trả lời chờ đợi công ty cũ mở cửa trở lại để quay trở lại làm việc.

Trong số 26.378 người tham gia khảo sát trả lời đang có việc, 45% số người trả lời cho biết tiền lương của họ giữ nguyên. Số lao động trả lời được tăng lương chiếm tỷ lệ rất nhỏ khoảng 0,4%. Gần 19% số người trả lời cho biết họ có việc làm nhưng tiền lương giảm 50% do giảm công việc. Số lao động có việc làm nhưng lương giảm tới 80% hoặc nhận lương tùy thuộc vào sản phẩm làm ra trong tháng chiếm tỷ lệ tương ứng lần lượt là 4,5% và 11,7%.

Để vượt qua khó khăn, đảm bảo cuộc sống, người lao động đã đề xuất Chính phủ và cơ quan chức năng có các chính sách hỗ trợ thiết thực kịp thời, trong đó tập trung vào các chính sách trợ cấp/hỗ trợ trực tiếp, chính sách tiêm chủng vắc xin, giải quyết các khó khăn về thu nhập, công việc. Bên cạnh đó, có chính sách về việc giảm lãi suất ngân hàng hoặc hoãn trả các khoản vay cho người lao động bị mất việc do dịch đến khi ổn định tình hình; Tạo các gói vay lãi suất thấp để các hộ kinh doanh cá thể có điều kiện tiếp cận vốn tái hoạt động, tháo gỡ khó khăn trong di chuyển, lưu thông hàng hóa,

Cuộc khảo sát do Ban nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV thuộc Hội đồng tư vấn cải cách TTHC của Thủ tướng Chính phủ) phối hợp với Báo Điện tử VnExpress tiến hành. Cuộc khảo sát này có mục đích nắm bắt nhanh thực trạng tác động của Covid-19 đến việc làm và thu nhập của người lao động, (ii) tìm hiểu thực tế về khả năng tích lũy, nhìn rõ nguồn hỗ trợ đối với người lao động (iii) nắm bắt tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, (iv) tìm hiểu thực tế về sức khỏe tài chính, khó khăn của doanh nghiệp và (v) những mong muốn về chính sách hỗ trợ từ phía doanh nghiệp, người lao động. Trên cơ sở đó, tổng hợp các kiến nghị của người lao động và doanh nghiệp góp phần giúp Chính phủ, Bộ, ngành, địa phương, các nhà hoạch định chính sách thấy rõ thực tiễn, hiện trạng liên quan để xây dựng chính sách phù hợp, hiệu quả./.

Hiếu Phương

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư