e-ISSN: 2734-9365

Trang chủ/Diễn đàn khoa học/Nghiên cứu - Trao đổi

Thực trạng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường qua số liệu doanh nghiệp 8 tháng đầu năm 2021

08:00 | 02/12/2021 Print
Làn sóng thứ 4 dịch Covid -19 diễn biến hết sức phức tạp với quy mô lây lan rộng tại nhiều địa phương trên cả nước đang đẩy các doanh nghiệp vào tình thế hết sức khó khăn. Số doanh nghiệp đối mặt với nguy cơ tạm ngừng hoạt động, thậm chí là đóng cửa, phá sản đang có xu hướng ngày càng gia tăng. Bài viết đề cập thực trạng rút lui khỏi thị trường của doanh nghiệp trong 8 tháng đầu năm 2021, đồng thời khuyến nghị một số giải pháp để doanh nghiệp tái cơ cấu lại hoạt động, tăng khả năng thích nghi và sớm phục hồi trong bối cảnh đại dịch kéo dài.

THỰC TRẠNG RÚT LUI KHỎI THỊ TRƯỜNG CỦA DOANH NGHIỆP 8 THÁNG NĂM 2021

Doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường gia tăng

Từ đầu năm 2020, dịch bệnh Covid-19 đã gây tác động tiêu cực đến kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Với tinh thần đồng hành cùng doanh nghiệp, thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, góp phần duy trì tăng trưởng GDP dương năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021 đạt 5,64%. Tuy nhiên, hiện nay tình hình dịch bệnh Covid-19 vẫn đang diễn biến hết sức phức tạp, tốc độ lây lan rất nhanh (nhất là đợt dịch bùng phát trong tháng 7/2021), ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp đang tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong khi các nguồn lực dự trữ đang cạn dần, thị trường chưa có dấu hiệu phục hồi hoặc đang phục hồi rất chậm.

Thực trạng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường qua số liệu doanh nghiệp 8 tháng đầu năm 2021
Dịch bệnh gây khó khăn cho rất nhiều doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trung bình mỗi tháng có 10.689 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường

Sự bùng phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ tư cùng với các đợt phong tỏa, giãn cách liên tiếp và nghiêm ngặt nhất kể từ khi dịch bệnh xảy ra đã khiến các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề; nhiều nhà máy sản xuất, đặc biệt là ở khu vực phía Nam phải tạm ngừng hoạt động trong thời gian phong tỏa; hoạt động vận tải hàng hóa và chuỗi cung ứng cho sản xuất cũng bị gián đoạn... Nếu như tình hình đăng ký doanh nghiệp nửa đầu năm 2021 vẫn còn có điểm sáng thì sang đến tháng 8 năm 2021, số liệu về tình hình doanh nghiệp gia nhập và rút lui khỏi thị trường lại cho thấy những diễn biến phức tạp của dịch bệnh trong đợt bùng phát thứ 4 đã gây ra những tác động tiêu cực lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh và phát triển của các doanh nghiệp.

Số liệu của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh cho thấy, số doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng đầu năm 2021 là 81.584 doanh nghiệp, giảm 8% so với cùng kỳ năm 2020. Đây là lần thứ 2 số doanh nghiệp thành lập mới trong 8 tháng đầu năm có sự giảm sút trong giai đoạn 2016-2021. Trước đó, năm 2020 có mức giảm 2% so với năm 2019. Trong khi đó, trung bình 8 tháng đầu năm giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ doanh nghiệp thành lập mới tăng 8%. Cùng xu hướng đó, số vốn đăng ký thành lập trong 8 tháng đầu năm 2021 đạt 1.133.369 tỷ đồng, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2020. Đây là lần đầu tiên trong 8 tháng giai đoạn 2016-2021, số vốn đăng ký thành lập có sự giảm sút.

Bên cạnh đó, dưới tác động của dịch bệnh, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 8 tháng đầu năm 2021 tiếp tục có sự gia tăng, với 85.508 doanh nghiệp, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, có 43.165 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, chiếm đến 50,5% tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 8 tháng đầu năm 2021. Trung bình mỗi tháng có 10.689 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Tính riêng TP. Hồ Chí Minh, trong 8 tháng đầu năm 2021 có 24.010 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (chiếm 28,1% số doanh nghiệp rút lui của cả nước), tăng 6,6% so với cùng kỳ năm 2020. Sự gia tăng về doanh nghiệp rút lui chủ yếu đến từ sự gia tăng số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn (12.621 doanh nghiệp, tăng 20,2%).

Trên thực tế, doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường bao gồm: doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh; doanh nghiệp đang thực hiện thủ tục giải thể và doanh nghiệp đã giải thể. Trong đó, tình trạng tạm ngừng kinh doanh và giải thể doanh nghiệp có một số điểm khác biệt cơ bản như sau:

Một là, giải thể doanh nghiệp dẫn đến sự chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải tiến hành thanh lý tài sản, thực hiện việc thanh toán toàn bộ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp. Đây là điều kiện tiên quyết và đặc trưng của giải thể doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan đến tài chính doanh nghiệp. Đây cũng là tiêu chí phân biệt giải thể với tạm ngừng kinh doanh.

Trong khi đó, tạm ngừng kinh doanh là tình trạng doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động sản xuất, kinh doanh trong một thời gian nhất định và phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Đây được coi là thời điểm để doanh nghiệp nghe ngóng, xem xét diễn biến của thị trường hoặc tìm kiếm những ý tưởng, cơ hội mới. Sau khoảng thời gian đó, doanh nghiệp tiếp tục quay trở lại hoạt động như bình thường. Ngược lại, nếu nhận thấy không thể vượt qua được khó khăn, doanh nghiệp sẽ giải thể, chấm dứt tồn tại.

Hai là, theo quy định của pháp luật hiện hành, có 2 loại trường hợp giải thể doanh nghiệp. Đó là tự nguyện giải thể và bắt buộc bị giải thể. Trường hợp tự nguyện giải thể bắt nguồn từ ý chí của chủ sở hữu doanh nghiệp, họ có quyền quyết định việc giải thể doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp sẽ phải giải thể bắt buộc trong trường hợp không đáp ứng được các điều kiện để tiếp tục kinh doanh hay vi phạm các quy định của pháp luật. Trong khi đó, tạm ngừng kinh doanh hoàn toàn do doanh nghiệp toàn quyền quyết định.

Ba là, để thực hiện thủ tục giải thể tự nguyện, doanh nghiệp phải trải qua 2 bước gồm: (1) Thông báo việc giải thể doanh nghiệp tới Phòng Đăng ký kinh doanh doanh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính; (2) Sau khi thanh toán hết các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính, doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký giải thể đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Do đó, thủ tục giải thể doanh nghiệp được coi là phức tạp hơn so với tạm ngừng kinh doanh.

Trong bối cảnh dịch bệnh, việc doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng cao là một vấn đề cần lưu ý.

Một số điểm đáng chú ý về tình hình doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường

Phân tích số liệu doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong thời gian qua, có thể nhận thấy một số điểm đáng chú ý như sau:

(i) Ảnh hưởng của dịch Covid-19 là nguyên nhân chính dẫn đến việc doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường

Kể từ khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường đã có sự gia tăng đáng kể. Cụ thể, trong 8 tháng đầu năm 2020, số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng 22,2% so với cùng kỳ năm 2019; 8 tháng đầu năm 2021 tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2020. Đáng chú ý, con số 85.508 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong 8 tháng đầu năm 2021 là mức cao nhất trong 8 tháng đầu năm từ trước đến nay.

Để có cái nhìn rõ hơn về nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp phải rút lui khỏi thị trường, Cục Quản lý đăng ký kinh doanh đã tiến hành thực hiện khảo sát ngẫu nhiên hơn 1.800 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong tháng 6/2020 bằng hình thức bảng hỏi trực tuyến trên Cổng Thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và gửi mẫu phiếu trực tiếp đến doanh nghiệp thông qua Phòng Đăng ký kinh doanh các tỉnh/thành phố.

Kết quả khảo sát cho thấy, dịch bệnh Covid-19 là nguyên nhân chính dẫn đến doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, với 68,5% doanh nghiệp trả lời khảo sát; 30,2% doanh nghiệp tạm ngừng, giải thể để tái cơ cấu doanh nghiệp, tìm hướng đi mới; 8,9% tạm ngừng, giải thể do hạn chế về năng lực quản trị, tính đổi mới sáng tạo, năng suất lao động; 4,6% là do không đáp ứng được điều kiện kinh doanh; 4,5% do tính chất ngành, nghề; 11,2% là do những khó khăn khác.

Những khó khăn doanh nghiệp gặp phải bao gồm:

- Có 86,9% doanh nghiệp không có khách hàng do tác động của dịch bệnh; nhiều trường hợp cho biết bị gián đoạn, ngưng trệ hoạt động, thậm chí dừng hoạt động do tình hình dịch và đứng trước bờ vực phá sản bởi thị trường giảm cầu đột ngột, dẫn tới giảm mạnh doanh thu, cũng như vấp phải những rủi ro về thu hồi nợ và mất khả năng thanh toán;

- 62% doanh nghiệp phản hồi khó tiếp cận vốn vay vì không có tài sản thế chấp và có 40,9% doanh nghiệp cho rằng, quy trình vay vốn phức tạp;

- Các doanh nghiệp tham gia khảo sát đều gặp khó khăn trong thanh toán các khoản thuế, phí, và các chi phí khác, trong đó nổi bật là chi phí thuê nhà xưởng, văn phòng, địa điểm kinh doanh (63,5%); thanh toán lương/bảo hiểm xã hội/bảo hiểm y tế/bảo hiểm thất nghiệp (chiếm 45,6%) và thanh toán thuế (40,5%);

- Nhiều doanh nghiệp đang gặp khó khăn trong việc áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh bởi mô hình kinh doanh cũ, không đáp ứng được nhu cầu sản phẩm/dịch vụ mới của thị trường (chiếm 45%). Bên cạnh đó, có 41,9% doanh nghiệp khó khăn về tài chính cho việc chuyển đổi số;

- Dịch bệnh cũng làm tăng giá nguyên liệu, hàng hóa đầu vào trong nước và từ nước ngoài, dẫn đến khan hiếm nguyên vật liệu và chi phí sản xuất.

Các số liệu trên cho thấy dịch bệnh Covid-19 đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

(ii) Doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh trong ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường

Trong số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, có 43.165 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, chiếm đến 50,5% tổng số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường 8 tháng đầu năm 2021, tăng 25,9% so với cùng kỳ năm 2020. Có thể thấy, đợt bùng phát dịch Covid-19 lần thứ 4 từ ngày 27/4/2021 đến nay đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế - xã hội tại nhiều địa phương. Trong bối cảnh dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhiều địa phương phải thực hiện các biện pháp giãn cách xã hội thì việc số lượng doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có sự gia tăng là điều dễ hiểu. Điển hình là TP. Hồ Chí Minh, trong 8 tháng đầu năm 2021, đã có 12.621 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, chiếm 29,2% cả nước.

Bên cạnh đó, phần lớn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh là những đơn vị mới thành lập dưới 5 năm, quy mô nhỏ nên sức chống chịu thấp, trong khi phải liên tiếp chịu tác động từ những đợt bùng phát dịch thời gian qua. Trong bối cảnh khó khăn đó, nhiều doanh nghiệp thường chọn cách tạm ngừng kinh doanh để cầm cự, kéo dài thời gian tồn tại và quay lại thị trường khi có cơ hội, chưa “đóng cửa” doanh nghiệp hoàn toàn ở thời điểm này.

Mặt khác, theo số liệu về tình hình đăng ký doanh nghiệp 8 tháng đầu năm 2021, có thể nhận thấy, xu hướng thanh lọc mạnh mẽ tiếp tục diễn ra ở các ngành nghề cho thấy lĩnh vực có số doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh lớn nhất cũng là những ngành nghề có số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động cao nhất. Điều này cũng cho thấy, khủng hoảng, khó khăn hay các yếu tố tiêu cực cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp tự làm mới mình, tìm ra những hướng đi mới phù hợp với nhu cầu thị trường để tồn tại và phát triển mạnh mẽ hơn.

(iii) Doanh nghiệp cần thay đổi mạnh mẽ để thích ứng với nghịch cảnh và sớm phục hồi

Số liệu doanh nghiệp gia nhập và quay trở lại thị trường tăng trong giai đoạn đầu năm 2021 cho thấy tín hiệu tích cực, tuy nhiên, những tác động của dịch bệnh tới nền kinh tế trong thời gian qua vẫn còn dai dẳng, phản ánh qua việc số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tiếp tục tăng, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng thực hiện các giải pháp mạnh, trước hết là hạn chế sự lây lan của dịch bệnh, sau đó để phát triển kinh tế, nhưng sau một năm chịu tác động của dịch Covid-19, sức lực của rất nhiều doanh nghiệp trong nước đã bị bào mòn, không thể trụ vững, dẫn đến việc phải rút lui khỏi thị trường.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến quyết định rút lui của doanh nghiệp, do dịch Covid-19, do đầu ra đứt gãy, do chi phí hoạt động tăng quá cao, hay có thể do thay đổi ngành nghề, chiến lược kinh doanh... Cho dù là nguyên nhân nào, thì đây cũng là dịp để các doanh nghiệp tự làm mới mình, tìm ra những hướng đi mới phù hợp với nhu cầu thị trường để tồn tại và phát triển mạnh mẽ hơn, bởi rủi ro luôn song hành cùng cơ hội.

KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP

Có thể nói, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước chỉ có thể giảm bớt những tác động tiêu cực từ dịch bệnh, nhưng không thể quyết định được sự tồn vong của doanh nghiệp. Việt Nam có đến 97% doanh nghiệp nhỏ và vừa, sức chịu đựng kém, dễ tổn thương. Trong bối cảnh thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nền kinh tế Việt Nam lại là một nền kinh tế năng động, không ngừng phát triển như hiện nay, thì sức ép đối với doanh nghiệp càng lớn, tính cạnh tranh, thanh lọc càng thể hiện rõ rệt. Vì vậy, ngay lúc này, các doanh nghiệp cần phải tự mình đưa ra các phương thuốc để vượt qua cơn bạo bệnh. Các giải pháp đề xuất bao gồm:

Thứ nhất, các doanh nghiệp cần đổi mới tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ để tăng hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh; thực hiện tiết kiệm, cắt giảm chi phí, giảm giá thành sản phẩm; đa dạng hóa nguồn nguyên liệu đầu vào; tăng cường liên kết thông qua các chuỗi cung ứng và mạng lưới các hiệp hội doanh nghiệp, ngành hàng và địa phương.

Thứ hai, tập trung đầu tư cho nghiên cứu phát triển, gắn đổi mới sáng tạo với các cấu phần khác của chiến lược, như: sản xuất, kinh doanh, chú trọng khâu quảng cáo, tài chính, logistics, nhân sự…

Thứ ba, tập trung khai thác thị trường nội địa tiềm năng với gần 100 triệu dân; thực hiện chuyển đổi số, đầu tư mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ, kỹ thuật tiên tiến; hiện đại hóa hệ thống quản trị và quy trình hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ, thay thế các hình thức, phương thức kinh doanh, các sự kiện bán hàng theo kiểu truyền thống bằng các giải pháp công nghệ mới để khách hàng dễ dàng tiếp cận thông tin, kinh doanh trên các sàn giao dịch điện tử.

Thứ năm, các doanh nghiệp cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, như: xây dựng kế hoạch huy động vốn từ các nhà đầu tư, huy động vốn từ vốn góp ban đầu; huy động vốn từ lợi nhuận không chia, mà dùng để tái đầu tư; huy động vốn từ phát hành cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán; huy động bằng tín dụng ngân hàng thông qua hợp đồng vốn với ngân hàng thương mại; huy động bằng tín dụng thương mại và huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần tìm kiếm nguồn vốn duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ bảo lãnh tín dụng, ngân hàng thương mại qua các gói sản phẩm dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Thực tế cho thấy, các chính sách hỗ trợ từ Chính phủ là rất quan trọng và cần thiết để doanh nghiệp cầm cự trong giai đoạn khó khăn và duy trì hoạt động, nhưng sự sáng tạo và khả năng thích ứng của mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành nghề mới có tính quyết định cho sự sống còn của doanh nghiệp. Khủng hoảng và khó khăn thường là điều kiện tốt cho những thay đổi tích cực và sáng tạo để nâng cao hiệu quả hoạt động. Chính doanh nghiệp phải là người thầy thuốc tốt nhất để tự giúp mình nâng cao sức đề kháng và vượt qua được dịch bệnh./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (2021). Tình hình đăng ký doanh nghiệp tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2021

Võ Huy Hùng

Cục Quản lý đăng ký kinh doanh – Bộ Kế hoạch và Đầu tư

(Bài viết đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 27, tháng 9/2021)

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư