Định vị Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trong thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng

18:07 | 22/02/2022 Print
Bên cạnh các thách thức truyền thống và thường xuyên, như: biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường, suy giảm đa dạng sinh học, gia tăng bất bình đẳng..., đại dịch Covid-19 còn khiến các quốc gia phải đối mặt với khủng hoảng chưa từng có về y tế và cách thức đối phó với đại dịch, trong đó gốc rễ xuất phát từ sự mất cân đối về tổng thể cơ cấu kinh tế và mô hình phát triển. Trong bối cảnh đó, nhu cầu cấp thiết của các quốc gia, trong đó có Việt Nam, là phải đổi mới mô hình tăng trưởng để tận dụng thời cơ và vượt qua thách thức, hướng tới phát triển bền vững. Tăng trưởng xanh đang trở thành một xu hướng tất yếu, là ưu tiên của nhiều quốc gia và là cơ hội để các quốc gia trên thế giới ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu nhằm đạt được khát vọng thịnh vượng bao trùm.

TĂNG TRƯỞNG XANH – TỪ NHỮNG BIẾN CHUYỂN TOÀN CẦU...

Lựa chọn tăng trưởng xanh ở phạm vi quốc tế hay ở từng quốc gia, dù thuộc khía cạnh chính sách hay triển khai hành động đều góp phần tận dụng tối đa các cơ hội, đồng thời giảm thiểu các thách thức, đóng vai trò là nhân tố định hình cho tương lai nhân loại trong những thập kỷ tới.

Nền kinh tế xanh mở ra thời kỳ tăng trưởng cao dựa trên đổi mới sáng tạo và sử dụng hiệu quả tài nguyên, tạo cơ hội phát triển mới

Theo đánh giá của Ủy ban châu Âu năm 2020, quy mô thị trường toàn cầu cho các sản phẩm và dịch vụ xanh ước tính đạt trên 5 nghìn tỷ USD và có tốc độ tăng trưởng cao hơn các thị trường truyền thống. Đến năm 2030, nền kinh tế xanh được dự báo tạo ra 24 triệu việc làm mới trên toàn cầu nếu các quốc gia có những chính sách phù hợp. Kinh tế xanh còn tạo cơ hội thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư vào nhiều lĩnh vực mới, như: năng lượng tái tạo, giao thông thông minh, nông nghiệp thông minh, đô thị - công trình xanh, tài chính xanh…

Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang làm thay đổi cơ bản phương thức sản xuất, kinh doanh và cách thức tương tác

Nền kinh tế số đã và đang hình thành với giá trị gia tăng cao, dựa trên tri thức, tạo ra nhu cầu về việc làm mới, bao gồm việc làm xanh. Hơn nữa, việc tận dụng công nghệ mới cũng như sản xuất “thông minh” cùng sự phát triển các mô hình kinh doanh và cách thức tiêu dùng mới giúp tối ưu hóa phân bổ nguồn lực và phát triển bền vững hơn. Theo ước tính của Diễn đàn Kinh tế Thế giới và Tổ chức Sáng kiến Phát triển Bền vững Toàn cầu – GeSI, đến năm 2030, những thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể giúp giảm 15% tổng lượng khí nhà kính toàn cầu thông qua các giải pháp tích hợp trong các ngành năng lượng, công nghiệp sản xuất, nông nghiệp và sử dụng đất, tòa nhà, dịch vụ, giao thông vận tải, tăng 30% sản lượng nông nghiệp, tiết kiệm 25 tỷ thùng dầu mỗi năm, mang lại lợi ích kinh tế khoảng 11 nghìn tỷ USD.

Toàn cầu hóa và các cam kết quốc tế mang lại nhiều cơ hội phát triển, thúc đẩy đầu tư, thương mại hàng hóa dịch vụ, trong đó có các sản phẩm xanh

Mặc dù bảo hộ mậu dịch quay trở lại trong những năm gần đây, quá trình toàn cầu hóa vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới được ký kết, thực thi. Bên cạnh những đòi hỏi cao hơn về trách nhiệm xã hội, môi trường đối với các nước tham gia, các FTA thế hệ mới cũng thúc đẩy hợp tác, liên kết quốc tế để giải quyết các vấn đề toàn cầu, như: biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính…

Biến đổi khí hậu tiếp tục diễn biến phức tạp

Theo dự báo của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), trong thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình toàn cầu tiếp tục tăng, các hiện tượng khí hậu cực đoan sẽ xảy ra với tần suất và cường độ mạnh hơn. Do đó, để hạn chế sự gia tăng nhiệt độ toàn cầu ở mức dưới 2°C và theo đuổi các nỗ lực để hạn chế ở mức 1,5°C, nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ đã xoay trục nền kinh tế hướng tới phát thải thấp, xanh, sạch với tầm nhìn dài hạn đến giữa thế kỷ XXI. Bên cạnh mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính, nhiều quốc gia đưa ra các mục tiêu về phát triển kinh tế - xã hội, chú trọng đồng thời vào tăng trưởng, đảm bảo công bằng xã hội, cải thiện đời sống và nâng cao phúc lợi cho người dân.

Phục hồi xanh - một xu hướng mạnh mẽ trên thế giới

Đại dịch Covid-19 làm thay đổi sâu sắc tư duy và mô thức phát triển, làm nổi bật ưu tiên của các quốc gia về nâng cao năng lực chống chịu với những cú sốc bên ngoài. Nhiều chính phủ cam kết triển khai các gói hỗ trợ thúc đẩy phục hồi xanh. Riêng Liên minh châu Âu đã cam kết dành khoảng 267 tỷ USD cho các dự án đầu tư thân thiện với khí hậu trong thập kỷ tới, bao gồm: (i) Hỗ trợ phát triển hạ tầng và công nghệ sạch; (ii) Giảm trợ cấp nhiên liệu hóa thạch; (iii) Hỗ trợ các giải pháp dựa vào thiên nhiên, bao gồm: duy trì và khôi phục cảnh quan môi trường, tái trồng rừng… Mỹ cũng dành một nguồn lực không nhỏ nhằm đưa nền kinh tế phục hồi sau đại dịch. Các quốc gia phát triển và đang phát triển khác cũng không ngần ngại trong việc ưu tiên các hỗ trợ tài chính và khung khổ chính sách để nhanh chóng gia nhập tiến trình phục hồi xanh toàn cầu.

…ĐẾN NHẬN ĐỊNH BỐI CẢNH TRONG NƯỚC

Mặc dù không nằm ngoài những biến chuyển toàn cầu nêu trên, bối cảnh trong nước cũng có nhiều điểm đáng chú ý:

Thứ nhất, dù đạt được không ít thành tựu, song tăng trưởng kinh tế Việt Nam có dấu hiệu chững lại và đáng lưu ý là, mô hình tăng trưởng đang tạo áp lực lớn đến mục tiêu phát triển bền vững, bao trùm và sáng tạo. Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa trong 3 thập kỷ qua giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, song cũng gây suy thoái môi trường tự nhiên nhanh chóng, ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe người dân và chất lượng cuộc sống. Nồng độ bụi ở đô thị vượt quá nhiều lần tiêu chuẩn, giới hạn cho phép, đặc biệt ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp đã vượt từ 1,5 đến 2,5 lần. Dù Việt Nam là nước đóng góp nhỏ vào lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, nhưng lượng phát thải đã tăng gấp 5 lần kể từ đầu những năm 2000, trong đó, ngành công nghiệp, đặc biệt là năng lượng đóng góp trên 50% lượng phát thải.

Thứ hai, trong giai đoạn tới, Việt Nam xác định phải cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển từ chiều rộng sang chiều sâu, chú trọng hiệu quả, năng lực cạnh tranh và tính bền vững trong phát triển. Chủ trương đó đã được nhấn mạnh trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Phải đổi mới tư duy và hành động, chủ động nắm bắt kịp thời, tận dụng hiệu quả các cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn với quá trình hội nhập quốc tế để cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển kinh tế số, xã hội số…”.

Định vị Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trong thúc đẩy tái cơ cấu kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số..."

Thứ ba, Việt Nam tham gia tích cực vào Chương trình Nghị sự 2030 về Phát triển Bền vững, Công ước khung của Liên hiệp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCCC) và Thỏa thuận Paris về Biến đổi khí hậu (COP 21). Theo báo cáo về Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2020, Việt Nam là một trong 6 quốc gia chịu tác động mạnh nhất bởi biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó, cũng như nhiều quốc gia, đại dịch Covid-19 tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, đại dịch cũng mang lại cơ hội hiếm có giúp Việt Nam đẩy nhanh chuyển đổi số, ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và “phục hồi xanh”.

Thứ tư, Việt Nam đã tiến hành đàm phán, ký kết và thực hiện 18 FTA, trong đó có các FTA thế hệ mới, như: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EV-FTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… mở ra những cơ hội lớn trong việc tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và phát huy các lợi thế so sánh của Việt Nam. Việc tham gia các FTA này cũng đòi hỏi Việt Nam thực hiện các yêu cầu cao hơn về trách nhiệm xã hội, môi trường, bao gồm các nội dung về bảo vệ tầng ozon, cơ chế tự nguyện bảo vệ môi trường, lâm nghiệp và các sản phẩm lâm nghiệp, tài nguyên biển và sản phẩm nuôi trồng thủy sản, trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, mua sắm công xanh, bền vững và nhãn sinh thái.

TỪ CAM KẾT PHÁT THẢI RÒNG BẰNG “0” VÀO NĂM 2050 TẠI HỘI NGHỊ COP26…

Ngày 01/11/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã có phát biểu quan trọng tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (COP26) diễn ra ở thành phố Glasgow, Scotland, Vương quốc Anh, nêu bật những cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu. Với cam kết này, Việt Nam sẽ xây dựng và triển khai các biện pháp quyết liệt nhằm thúc đẩy giảm phát thải khí nhà kính bằng nguồn lực của mình, cùng với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển, cả về tài chính và chuyển giao công nghệ, trong đó có thực hiện các cơ chế theo Thỏa thuận Paris, để đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

…ĐẾN MỤC TIÊU CƠ CẤU LẠI NỀN KINH TẾ GẮN VỚI ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG - ĐỊNH VỊ CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA VỀ TĂNG TRƯỞNG XANH TRONG TỔNG THỂ KHUNG KHỔ CHÍNH SÁCH QUỐC GIA

Nhìn lại những diễn biến trước đó, ngay trước thềm Hội nghị COP26, ngày 01/10/2021, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với 4 mục tiêu cụ thể về: (i) Xanh hóa các ngành kinh tế; (ii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; (iii) Xanh hóa quá trình chuyển đổi; (iv) Mục tiêu bao trùm: giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP tới năm 2030 và 2050 (tương ứng 15% và 30% so với năm 2014). Chiến lược là minh chứng rõ nét nhất về việc Việt Nam quyết tâm lựa chọn cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo định hướng tăng trưởng xanh làm nền tảng cho tương lai đất nước, hướng tới các mốc quan trọng vào năm 2030, năm 2045 và những năm tiếp theo, tạo ra cơ hội lớn để Việt Nam có thể tiên phong trong khu vực về tăng trưởng xanh, phục hồi xanh, bắt kịp xu thế phát triển của thế giới.

Với các mục tiêu và giải pháp toàn diện nêu trên, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đã định vị rõ nét nỗ lực cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trong tổng thể khung khổ chính sách quốc gia, góp phần hết sức quan trọng triển khai các quyết sách lớn của đất nước trong thời gian tới:

Một là, thực hiện các định hướng lớn trong Văn kiện Đại hội Đảng XIII, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là định hướng quan trọng nhất để triển khai Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Hệ thống quan điểm trong báo cáo chính trị của Đại hội Đảng lần thứ XIII đã nêu rõ: “Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước”, và “…thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã đặt ra những yêu cầu về “…cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, bảo đảm thực chất, hiệu quả; phát triển nền kinh tế số; thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững…” và “phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các-bon thấp...”. Với các luận điểm trên, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh là một bộ phận không tách rời trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, hướng tới phát triển bền vững.

Hai là, triển khai hiệu quả kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch đầu tư công trung hạn

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025, trên cơ sở đó Chính phủ xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh nhằm đưa ra cơ sở để cụ thể hóa các hoạt động, nhiệm vụ góp phần cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng xanh và bền vững trong quá trình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025; đồng thời, định hướng và huy động nguồn lực thực hiện các dự án của kế hoạch đầu tư công trung hạn tích hợp các chương trình và dự án đầu tư xanh, đầu tư không hối tiếc.

Ba là, quyết liệt hoàn thành hệ thống quy hoạch các cấp, các chiến lược, chương trình, đề án phát triển của các ngành

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh có tính chất định hướng cho việc xanh hóa các ngành và không gian, lãnh thổ trong thời kỳ quy hoạch 2021-2030, tầm nhìn 2050. Cụ thể, Chiến lược này cung cấp căn cứ nghiên cứu, phân tích tổng hợp kịch bản phát triển các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, phản ánh toàn diện và tích hợp các nội dung nhằm tạo sự đồng bộ, tương thích, bổ trợ, khả thi trong triển khai thực hiện các quy hoạch trên quy mô toàn nền kinh tế cũng như theo ngành, lĩnh vực, lãnh thổ.

Bốn là, phương thức để phát triển bền vững, góp phần quan trọng vào Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC)

Tăng trưởng xanh là một phương thức quan trọng để đạt được phát triển bền vững. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh làm sâu sắc hơn các nội dung về phát triển kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng giảm thiểu phát thải khí nhà kính, tăng cường khả năng chống chịu với biến đổi khí hậu với cách tiếp cận xuyên suốt từ quan điểm, mục tiêu đến giải pháp cho tổng thể nền kinh tế và các ngành ưu tiên. Cụ thể, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đưa ra cách tiếp cận trên cơ sở tối ưu nguồn lực, trong đó tập trung vào các ngành ưu tiên dựa trên đóng góp của ngành trong GDP, xanh hóa sản xuất, tiêu dùng dựa trên tỷ trọng phát thải và khả năng giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; đi sâu khai thác và cụ thể hóa các khía cạnh “xanh” thành các mục tiêu định lượng và giải pháp chi tiết của các ngành, lĩnh vực, đồng thời chú trọng các nội dung về y tế, xã hội, khoa học, công nghệ, chính sách hỗ trợ cho tăng trưởng xanh. Các giải pháp tăng trưởng xanh trong từng ngành đã đề cập trong NDC cũng được mở rộng hơn, hướng tới cải thiện hiệu quả kinh tế, tăng cường khả năng huy động tài chính và thúc đẩy đầu tư xanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đảm bảo nhu cầu thiết yếu, chất lượng cuộc sống của người dân.

Với các vai trò nêu trên, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh có tính gắn kết chặt chẽ với chiến lược tổng thể của quốc gia và của các ngành, địa phương; đồng thời có vị trí và vai trò riêng, đặc biệt đối với mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; mặt khác là cơ sở để cân đối và huy động hiệu quả nguồn lực nhằm đạt được thịnh vượng về kinh tế, bền vững về môi trường và công bằng về xã hội.

TƯƠNG LAI XÁN LẠN CHO LỰA CHỌN TĂNG TRƯỞNG XANH

Các kịch bản tăng trưởng xanh trong Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh cho thấy tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các giải pháp tăng trưởng xanh góp phần giảm đáng kể cường độ phát thải của nền kinh tế. Kết quả của việc thực hiện các giải pháp tăng trưởng xanh giúp giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP về mức ít nhất 15% so với cường độ phát thải của năm gốc 2014 và tiệm cận với cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 trong trường hợp kết hợp đồng bộ giải pháp của tất cả các ngành và tối ưu hóa tiềm năng của các giải pháp công nghệ, ứng dụng chuyển đổi số và kinh tế tuần hoàn, triển khai quy mô lớn các bể chứa các-bon tự nhiên.

Để duy trì tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh nhấn mạnh, cần tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng phát triển các ngành công nghệ cao, dịch vụ sử dụng ít năng lượng và coi đây là ưu tiên hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế vĩ mô để cải thiện cường độ phát thải của nền kinh tế. Đối với các giải pháp ngành chưa có hiệu quả tài chính, cần thực hiện các biện pháp can thiệp chính sách mạnh mẽ hơn để thúc đẩy đầu tư và mở rộng quy mô thực hiện. Đối với các giải pháp ngành có tiềm năng cao nhưng chưa hiện thực ở quy mô thương mại, cần nhanh chóng tập trung tạo lập khuôn khổ pháp lý và xây dựng các mục tiêu chiến lược để đón đầu việc phát triển và ứng dụng công nghệ ở các giai đoạn sau.

Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh được kỳ vọng sẽ tác động tích cực đến phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Trong dài hạn, tác động của các giải pháp tăng trưởng xanh đến các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (GDP, việc làm, đầu tư, thu ngân sách) theo chiều hướng tích cực do lợi ích về kinh tế lớn hơn chi phí tăng thêm. Đói nghèo sẽ có xu hướng giảm, đặc biệt giảm nhanh hơn ở nông thôn nhờ các giải pháp tăng trưởng xanh trong ngành nông nghiệp và lâm nghiệp, giúp thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các nhóm đối tượng và giữa nông thôn với thành thị. Các chất gây ô nhiễm môi trường được kiểm soát và giảm dần, góp phần cải thiện đáng kể sức khỏe cộng đồng.

Trong quá trình hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0”, danh mục các giải pháp chống chịu, giảm nhẹ và các công cụ chính sách sẽ quyết định tính đồng lợi ích (co-benefit) và đánh đổi (trade-off) giữa biến đổi khí hậu, giảm nhẹ khí nhà kính và phát triển bền vững. Với hệ thống các giải pháp đồng bộ đã đề ra, Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh được kỳ vọng sẽ đóng góp tích cực vào mục tiêu cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, góp phần quan trọng thực hiện các cam kết quốc tế của đất nước trong dài hạn.

Nằm trong dòng chảy của những thay đổi “vô tiền khoáng hậu” trên thế giới, đặc biệt là tốc độ vô cùng mau lẹ của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với tầm ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống, bối cảnh trong nước và quyết tâm chính trị mạnh mẽ cho thấy, lựa chọn tăng trưởng xanh tiếp tục vừa là mục tiêu, vừa là phương pháp tiếp cận hiệu quả trong nỗ lực cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng nhằm triển khai thực hiện thành công các mục tiêu đề ra của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trong năm mới Nhâm Dần 2022 và cả thập kỷ tới./.

TS. Lê Việt Anh

Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

ThS. Trần Minh Huế

Chuyên viên chính, Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2, tháng 1/2022)

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư