Hoạt động truyền thông lồng ghép bảo vệ môi trường trong thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Thực trạng và giải pháp

10:51 | 12/04/2022 Print
Bảo vệ môi trường (BVMT) là trụ cột quan trọng để đảm bảo phát triển bền vững. Nhiệm vụ BVMT càng cấp bách hơn trong điều kiện biến đổi khí hậu (BĐKH). Nâng cao hiệu quả truyền thông trong hoạt động BVMT giữ một vai trò quan trọng và là mắt xích không thể thiếu trong việc thống nhất ý chí, hành động của cộng đồng trên phạm vi rộng rãi nhất cho mục tiêu phát triển bền vững. Bài viết trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động truyền thông lồng ghép BVMT trong thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) giai đoạn 2011-2020, đề xuất một số giải pháp cho giai đoạn phát triển mới.

MỐI QUAN HỆ GIỮA PHÁT TRIỂN KTXH VỚI BVMT GIAI ĐOẠN 2011-2020

Kết quả thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 2011-2020

Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2011-2020 cho thấy, mặc dù chịu ảnh hưởng lớn bởi đại dịch Covid-19, nhưng tăng trưởng GDP cả thời kỳ Chiến lược đạt 5,9%/năm; trong đó: giai đoạn 2011-2015 tăng trưởng bình quân đạt 5,9%/năm; giai đoạn 2016-2019 đạt 6,8%/năm và năm 2020 đạt 2,91% thuộc nhóm có mức tăng trưởng cao nhất thế giới năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020. Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn dưới 4% trong giai đoạn 2016-2020. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng bình quân 10,6%/năm; đã thu hút được nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài quy mô lớn, công nghệ cao.

Hoạt động truyền thông lồng ghép bảo vệ môi trường trong thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Thực trạng và giải pháp
Thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 2011-2020, công tác BVMT, ứng phó với BĐKH đã được chú trọng.

Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực. Tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 còn 14,8% năm 2020. Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao trong các ngành, lĩnh vực ngày càng tăng; tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu qua chế biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng từ 65% năm 2011 lên 85% năm 2020. Ngành du lịch đã có bước phát triển rõ rệt, số lượng khách quốc tế tăng từ 5 triệu lượt năm 2010 lên 18 triệu lượt năm 2019. Chương trình xây dựng nông thôn mới hoàn thành trước thời hạn gần 2 năm so với mục tiêu đề ra; đến hết năm 2020 có khoảng 63% xã đạt chuẩn nông thôn mới, vượt xa mục tiêu đề ra (50%).

Trong thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 2011-2020, công tác BVMT, ứng phó với BĐKH đã được chú trọng. Việt Nam đã chủ động kiểm soát, làm chủ công nghệ giám sát, phòng ngừa ô nhiễm, đảm bảo các dự án lớn tiềm ẩn nguy cơ cao được kiểm soát chặt chẽ, hoạt động an toàn, đóng góp cho tăng trưởng. Các chỉ số về môi trường có sự chuyển biến: tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom xử lý tăng trung bình 6%/năm; tỷ lệ thu gom xử lý chất thải rắn công nghiệp đạt 90%; tỷ lệ tro xỉ được tái sử dụng đạt trên 50%. Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 228 cơ sở, đạt 89%, trong đó có 121 khu công nghiệp đầu tư lắp đặt thiết bị quan trắc nước thải tự động, liên tục [5].

Hậu quả ô nhiễm môi trường do phát triển kinh tế mang lại

Phát triển kinh tế luôn đi kèm với ô nhiễm môi trường dù nhiều hay ít. Khi kinh tế phát triển, các nhà máy sẽ mọc lên như nấm, đi kèm với đó là khí thải, bụi bặm cũng sẽ sản sinh thêm. Báo cáo EPI năm 2020 cho thấy, Việt Nam xếp hạng thứ 141/180 quốc gia với điểm số tổng hợp là 33,4/100, so với 11 quốc gia tại khu vực Đông Nam Á, chỉ số EPI của Việt Nam chỉ xếp trên duy nhất Myanmar và dưới mức trung bình của khu vực (40,4) [2]. Một số thực trạng ô nhiễm môi trường phải kể đến:

- Ô nhiễm sông ngòi: Sông ngòi không chỉ ở thành phố, mà cả vùng nông thôn cũng đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nặng nề do rác thải sinh hoạt, rác thải làng nghề, rác thải nông nghiệp và rác thải từ các khu công nghiệp. Dẫn chứng như: tại TP. Hà Nội hiện có khoảng 350 - 400 nghìn m3 nước thải và hơn 1.000 m3 rác thải xả ra mỗi ngày, nhưng chỉ 10% được xử lý, số còn lại xả trực tiếp vào sông ngòi gây ô nhiễm nước khiến cá chết hàng loạt ở Hồ Tây, mức độ ô nhiễm rộng khắp 6 quận (Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng, Cầu Giấy, Tây Hồ); cụm công nghiệp Thanh Lương của TP. Hồ Chí Minh có tới khoảng 500.000 m3 nước thải/ngày từ các nhà máy bột giặt, giấy, nhuộm [6].

- Bãi rác công nghệ và chất thải: Nhiều dự án luyện, cán thép lớn, ti tan, bauxite nhôm Tây Nguyên và gần 28.000 container chứa phế liệu đang nằm tại các cảng biển… có nguy cơ biến Việt Nam thành nơi tập trung “rác” công nghệ và chất thải [4].

- Ô nhiễm từ sản xuất nông nghiệp: Nguồn chất thải vào môi trường từ trồng trọt và chăn nuôi đang có xu hướng gia tăng, tổng khối lượng chất thải trong chăn nuôi của nước ta hiện khoảng hơn 73 triệu tấn/năm. Tình trạng sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt một cách tràn lan, không có kiểm soát đã gây ô nhiễm môi trường đất, nước.

- Ô nhiễm từ khai thác khoáng sản: Việt Nam hiện có hơn 5.000 điểm mỏ với khoảng 60 loại khoáng sản khác nhau và có 1.100 doanh nghiệp khai khoáng. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, giai đoạn 2011-2020, mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 2,6-3,1 triệu tấn khoáng sản các loại (không kể than, dầu thô) mang lại giá trị 200-230 triệu USD. Tuy nhiên, hoạt động khai thác khoáng sản đã và đang tác động xấu đến môi trường xung quanh, như: phá vỡ cấu trúc địa chất cảnh quan và hình thái môi trường; tạo ra các bãi thải và hồ chứa với diện tích lớn; gây sạt lở bãi thải, sụt lún lòng đất và phát tán chất thải, làm ảnh hưởng đến việc sử dụng nguồn nước, ô nhiễm nước, tiềm ẩn nguy cơ về dòng thải axit mỏ…

- Ô nhiễm môi trường biển: Báo cáo hiện trạng môi trường biển 2016-2020 cho biết, nguồn thải từ hoạt động nuôi trồng thủy hải sản và hoạt động từ du lịch biển có tác động đến không gian của các đô thị ven biển (các dự án lấn biển làm khu nghỉ dưỡng tại các khu ven biển) là nguyên nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường cục bộ tại một số vịnh, đầm phá ven biển Việt Nam. Bên cạnh đó, sự gia tăng chất thải nhựa đại đương trong những năm gần đây là vấn đề lớn, cũng đang gây áp lực không nhỏ trong công tác quản lý chất thải trên biển.

Hệ quả từ sự suy thoái môi trường lại tác động trở lại đến phát triển KTXH, theo như đánh giá của Ngân hàng Thế giới, tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm không khí tại Việt Nam đã gây thiệt hại lên đến 5% GDP hàng năm. Trong khi Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội Quốc gia đưa ra dự đoán, trong giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng tổng đầu tư toàn xã hội và việc làm sẽ bị giảm trung bình mỗi năm tương ứng khoảng 1,2% và 0,08%, cùng lúc đó tăng trưởng tiêu dùng bình quân mỗi năm cũng sẽ giảm 0,1% do tác động của ô nhiễm môi trường [3].

THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG LỒNG GHÉP BVMT

Phương thức và nội dung truyền thông lồng ghép BVMT

Cùng với xu thế phát triển chung của thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi mạnh mẽ trên con đường công nghiệp hóa và hiện đại hóa, kéo theo nhiều vấn đề về môi trường nảy sinh có ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và công cuộc phát triển bền vững của đất nước. Truyền thông đã trở thành một trong những giải pháp trong sự nghiệp BVMT và đồng hành cùng quá trình thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 2011-2020. Mỗi mô hình truyền thông lồng ghép BVMT trong thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 2011-2020 sử dụng đa dạng các công cụ truyền thông, nhưng chủ yếu vẫn là kênh truyền thông đại chúng. Có thể khái quát các mô hình truyền thông lồng ghép BVMT giai đoạn 2011-2020, như sau:

Thứ nhất, mô hình truyền thông môi trường (TTMT) tuyên truyền là điển hình của kiểu truyền thông từ trên xuống. Công cụ sử dụng là tuyên truyền miệng, tờ rơi, tờ gấp, đài phát thanh, trạm truyền thanh, sách, tài liệu… để truyền tải các nội dung thuộc về chính sách, mục tiêu chiến lược. Đó là những thông điệp mang tính chân lý, thống nhất, như: thông điệp về trồng và bảo vệ rừng, BVMT xanh sạch đẹp, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, chống rác thải nhựa, bảo vệ nguồn tài nguyên nước… Đặc biệt ở các địa phương, nông thôn, miền núi, vai trò của hoạt động thông tin tuyên truyền cơ sở có ảnh hưởng đáng kể trong việc thông tin về các chính sách BVMT cho các nhóm dân cư trên địa bàn. Trong giai đoạn phát triển vừa qua, kiểu truyền thông từ trên xuống thông qua hình thức tuyên truyền đã đảm bảo quyền tiếp cận thông tin về BVMT của người dân, sự phủ sóng thông tin đến được với đối tượng mà TTMT hướng đến, đặc biệt thông tin BVMT đến được với đông đảo người dân, kể cả vùng sâu, vùng xa.

Thứ hai, mô hình TTMT thay đổi hành vi là mô hình nhấn mạnh vào khả năng thuyết phục của thông tin đối với người tiếp nhận. Công cụ sử dụng là thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, như: báo, đài phát thanh, truyền hình… hướng tới những nhóm công chúng lớn. Dựa trên đặc điểm của truyền thông đại chúng, bằng cách mô tả sự việc một cách logic, sống động với minh chứng có căn cứ, hình ảnh, âm thanh đã thuyết phục người dân bắt đầu từ việc nhận thức cho đến tiếp cận, tiếp nhận, vận dụng những kiến thức, chỉ dẫn của thông tin BVMT vào đời sống cá nhân. Thông điệp của mô hình truyền thông thay đổi hành vi nhắm đến thay đổi các hủ tục, đốt rừng làm rẫy, thói quen sử dụng lãng phí tài nguyên nước, ý thức BVMT, tôn trọng pháp luật… của người dân. Theo đó, trong thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 2011-2020, các phương thức sản xuất xanh, tiêu dùng xanh, giữ môi trường xanh sạch đẹp đã xuất hiện ngày một nhiều và khuếch tán đến các nhóm đối tượng rộng hơn. Bên cạch đó, phương tiện truyền thông đại chúng cũng đã đẩy mạnh hoạt động phản ánh những tác động tiêu cực do hoạt động sản xuất, sinh hoạt đến môi trường để cảnh báo, đấu tranh, gây áp lực nhằm thay đổi hành vi tận diệt tài nguyên khoáng sản, xâm lấn, xả thải gây ô nhiễm môi trường.

Thứ ba, mô hình TTMT giáo dục - giải trí là có sự kết hợp của cả hai phương diện giáo dục và giải trí, được phổ biến ở cấp độ đại chúng thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Ở cấp độ cộng đồng, đó là các hình thức tuyên truyền, biểu diễn nghệ thuật lưu động, các sân khấu truyền thống trình diễn các loại hình truyền thống, lồng ghép giáo dục về kỹ năng sống, về xây dựng đời sống văn hóa, văn minh, BVMT... Đây chính là cách mà TTMT tác động vào cộng đồng nhằm khắc phục sự phiến diện, cực đoan do thói quen của cộng đồng ứng xử với thiên nhiên. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011-2020, các phương tiện truyền thông đại chúng chưa có được nhiều sản phẩm truyền thông giáo dục - giải trí về BVMT, nguyên nhân có phần lớn do yếu tố kinh phí và tính phức tạp của loại hình truyền thông này.

Thứ tư, mô hình TTMT tham gia là thể hiện rõ nhất vai trò của truyền thông cộng đồng trong phát triển bền vững. Cách thức của truyền thông tham gia đa dạng, có thể là một hoạt động cấp xã, phường, thôn xóm tổ chức về một chủ đề cụ thể như: thói quen sử dụng nước sạch, thói quen dùng thuốc bảo vệ thực vật, hướng dẫn trồng rừng, cải tạo môi trường nước, làm sạch đại dương... Ở đó, người dân được tham gia và giao tiếp với nhau, họ là chủ thể của hình thức truyền thông được thiết kế như một buổi sinh hoạt tập thể, hay với hình thức trò chơi. Đây cũng là cách mà TTMT đã giúp “trao quyền” cho người dân, cho họ phương tiện, tức là lúc này người dân không chỉ là người tiếp nhận thuần túy, mà cũng có thể sử dụng công nghệ hiện đại để tự truyền thông. Trong giai đoạn 2011-2020, mô hình TTMT tham gia thường được triển khai đối với các dự án phát triển cộng đồng. Tuy nhiên, do các dự án phát triển cộng đồng được tổ chức hướng vào nhóm đối tượng cụ thể, nên không phát triển rộng rãi.

Thứ năm, mô hình TTMT tiếp thị xã hội là mô hình kết hợp của mô hình riêng lẻ kể trên, để tạo thành một chương trình hành động dài hơi, quy mô, như: Chương trình quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường, xây dựng nông thôn mới, chương trình triển khai mô hình du lịch sinh thái, du lịch xanh… Lõi của mô hình là một mục tiêu có tính chiến lược, đối tượng thụ hưởng trên diện rộng. Ở tầm vĩ mô, báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng đều vào cuộc thông tin, tuyên truyền, vận động, thuyết phục. Ở cấp vi mô, từng địa phương, cộng đồng có thể triển khai các hoạt động cụ thể. Các doanh nghiệp, các nhà khoa học, hội - đoàn thể cùng tham gia từ góc độ trách nhiệm và khả năng của mình.

Một số hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động TTMT giai đoạn 2011-2020 cũng bộc lộ những hạn chế:

(i) Thông tin nói chung, thông tin về BVMT, BĐKH nói riêng vẫn đi theo lối mòn với những phương thức thông tin truyền thống; thông điệp truyền thông nặng tính tuyên truyền một chiều, tác dụng làm thay đổi nhận thức một cách rõ rệt là chưa đạt, hiệu quả đạt được mục đích đề ra thấp. Cách thức truyền tải chưa hấp dẫn, sinh động, nên chưa thực sự tạo ra những “xung lực” có tác dụng mạnh mẽ để thay đổi nhận thức đến chuyển biến trong hành động của cộng đồng và cũng như thay đổi tư duy, biện pháp, chính sách quản lý từ phía cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp.

(ii) Truyền thông về BVMT, ứng phó với BĐKH chưa phát huy hết hiệu quả do chưa khai thác tốt được vai trò của internet, truyền thông xã hội, báo, tạp chí điện tử; chưa có nhiều các chương trình TTMT, ứng phó với BĐKH chuyên sâu, phù hợp với các nhóm xã hội, việc phân tầng, phân khúc đối tượng truyền thông chưa được coi trọng.

(iii) Các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu thông tin về các định hướng lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước, những thông tin về BĐKH ở mức độ quốc gia và toàn cầu mà thiếu thông tin phân tích các chủ trương, chính sách, pháp luật, kế hoạch và chương trình về BVMT, ứng phó với BĐKH; tập trung vào các biểu hiện và hậu quả của BĐKH và mô tả nó như một nguy cơ lớn đối với con người mà chưa đề cập nhiều đến biện pháp “ứng phó”, “thích nghi” với BĐKH; chủ yếu mới dừng ở việc đưa tin “mổ xẻ” các vấn đề và hiện trạng môi trường ở địa phương, cơ sở, mà thiếu tuyên truyền những mặt tích cực, mô hình hiệu quả BVMT.

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG TTMT

Để khắc phục những hạn chế của TTMT, một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động TTMT trong thực hiện Chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2021-2030 được đề xuất như sau:

Một là, đổi mới nội dung TTMT

Bên cạnh việc nội dung tuyên truyền về BVMT trên kênh truyền thông đại chúng tiếp tục tập trung vào: chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về BVMT; tuyên truyền hoạt động thực thi pháp luật về BVMT của các cơ quan quản lý nhà nước; tuyên truyền việc chấp hành pháp luật về BVMT của các tổ chức, cá nhân; kiến thức khoa học về môi trường, BĐKH; tuyên truyền về các kết quả nghiên cứu khoa học, các dự báo, cảnh báo liên quan đến BVMT, ứng phó với BĐKH; thông tin, tuyên truyền về các kịch bản BĐKH và các hệ quả của nó ở Việt Nam cũng như trên thế giới; thông tin về các sự kiện, phong trào, cuộc vận động về BVMT; các chương trình, dự án tham gia BVMT; phản ánh các vi phạm về BVMT của các tổ chức, cá nhân; biểu dương những điển hình trong công tác BVMT; thông tin về những biện pháp để BVMT trong sản xuất và đời sống; kinh nghiệm địa phương trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế để thích ứng với BĐKH… Nội dung tuyên truyền về BVMT trong thời gian tới cần đi vào chiều sâu, phù hợp với nhu cầu, điều kiện cụ thể từng đối tượng, vùng miền, cộng đồng dân cư; phải xuất phát từ tình hình thực tiễn, đúc rút những bài học thành công, hạn chế, giải pháp, sáng kiến từ thực tiễn. Nội dung tuyên truyền phải mang tính cụ thể, thiết thực, có thể học được và làm theo. Do đó, cần tăng thêm dung lượng thông tin về BVMT, thích ứng với BĐKH, để các thông tin về chủ đề này xuất hiện thường xuyên, với tần suất cao hơn từ 8%-10% thay vì 2% như hiện nay.

Hai là, đổi mới phương thức TTMT

Đổi mới phương thức tuyên truyền về BVMT trên kênh truyền thông đại chúng bao hàm đổi mới cả hình thức và cách thức đưa thông điệp. Theo đó, đổi mới hình thức truyền tải thông điệp đến đối tượng trên các phương tiện thông tin đại chúng cần theo hướng hấp dẫn (đa dạng các loại hình, có minh họa trực quan sinh động) và phù hợp với năng lực tiếp nhận thông tin của từng nhóm đối tượng mà TTMT hướng đến; tăng cường tính chuyên biệt, chuyên sâu và dung lượng các hình thức, thể loại tác phẩm báo chí mới, có tính hấp dẫn cao hơn như đồ họa, video, longform… theo định hướng TTMT của từng thời kỳ. Đổi mới cách thức tổ chức TTMT theo hướng chủ động, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tuyên truyền BVMT; tranh thủ truyền thông xã hội để nhân rộng đối tượng tiếp nhận thông điệp TTMT; đẩy mạnh sử dụng công nghệ, truyền thông xã hội và tổ chức hoặc phối hợp tổ chức các sự kiện/chiến dịch truyền thông về BVMT để nâng cao hiệu quả TTMT.

Ba là, tăng cường liên kết, phối hợp trong hoạt động TTMT

Tuyên truyền về BVMT, thích ứng với BĐKH là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, trong đó truyền thông đóng vai trò là lực lượng chủ lực về giáo dục, nâng cao nhận thức BVMT của cộng đồng, nên cần tăng cường hơn nữa sự quan tâm, phối hợp của các cấp, các ngành, các đoàn thể và các tổ chức chính trị xã hội đối với các cơ quan báo chí trong hoạt động TTMT. Theo đó, cần tăng cường: (i) Phối hợp giữa cơ quan báo chí với nhau trong việc chia sẻ thông tin, dữ liệu trong tuyên truyền; phối hợp với nhau tạo nên dư luận xã hội đủ mạnh để lên án các vi phạm pháp luật về môi trường, tổ chức các sự kiện truyền thông về môi trường; chia sẻ kinh nghiệm về TTMT… (ii) Liên kết, phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước các cấp để có thông tin từ nguồn về chủ trương, chính sách, pháp luật, chương trình, kế hoạch công tác và hoạt động BVMT, qua đó, thực hiện truyền thông về những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, vướng mắc; những mô hình tốt, cách làm hay trong công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tài nguyên, môi trường. (iii) Phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp và các tổ chức khác trong hoạt động TTMT, các sự kiện, cuộc vận động thuộc lĩnh vực BVMT để tạo sức lan tỏa trong cộng đồng và toàn xã hội./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương (2020). Báo cáo tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030

2. EDF Việt Nam (2021). Chỉ số hiệu quả môi trường (EPI) năm 2020, truy cập tại http://efd.vn/chi-so-hieu-qua-moi-truong-2020.html

3. Phương Anh (2016). Thiên tai và ô nhiễm môi trường làm giảm 0,6% GDP/năm, truy cập từ https://kinhtevadubao.vn/thien-tai-va-o-nhiem-moi-truong-lam-giam-06-gdpnam-10376.html

4. Minh Trang (2018). Sớm giải quyết tình trạng hàng chục nghìn công-ten-nơ “rác” tồn đọng tại các cảng, truy cập từ https://nhandan.vn/tin-tuc-kinh-te/som-giai-quyet-tinh-trang-hang-chuc-nghin-cong-ten-no-rac-ton-dong-tai-cac-cang-327145/

5. Tài nguyên và môi trường (2020). Công tác quản lý, bảo vệ môi trường đã có những chuyển biến mạnh mẽ, truy cập từ http://cspl-tnmt.monre.gov.vn/tin-tuc/tin-tuc-su-kien/cong-tac-quan-ly-bao-ve-moi-truong-da-co-nhung-chuyen-bien-m.html

6. VH (2021). Nguyên nhân, giải pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nước, truy cập từ https://dangcongsan.vn/xay-dung-xa-hoi-an-toan-truoc-thien-tai/nguyen-nhan-giai-phap-khac-phuc-tinh-trang-o-nhiem-moi-truong-nuoc-594443.html

Bài viết trong khuôn khổ thực hiện Nhiệm vụ Sự nghiệp môi trường “Đánh giá hiệu quả các công cụ, phương pháp truyền thông về lồng ghép bảo vệ môi trường trong thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020, đề xuất giải pháp công cụ tuyên truyền”

TS. Vũ Thanh Nguyên

(Bài đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 31 năm 2021)

© Kinh tế và Dự báo - Bộ Kế hoạch và Đầu tư